phân tích khổ 2 bài tràng giang

Bạn đang xem: Phân tích 2 khổ cuối bài tràng giang tóm tắt phân tích 2 khổ thơ cuối của bài thơ bản phác thảo số 1 i. mở đầu giới thiệu tác giả "Lời bài hát tuyệt vọng là lời bài hát hay nhất, tiếng nấc ấy chứa đựng ngòi bút bất diệt" (verytxes) Phân tích bài thơ Tràng Giang của Huy Cận tuyệt hay. By Huyền Trang - 16/10/2018. 113 0. Twitter; Facebook; Google+; Linkedin; Pinterest; Email; Xem thêm: Văn lớp 8: Phân tích đoạn trích "Trong lòng mẹ" của Nguyên Hồng hay nhất đầy Phân tích khổ thơ thứ 2 trong bài " Quê hương" của tế hanh .giup vs nhé Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang Trong hai câu thơ này, tác giả Tế Hanh đã sử dụng những động từ, tính từ mạnh: "hăng, phăng, vượt" và sử dụng nghệ thuật so sánh "chiếc thuyền nhẹ Mỗi bạn đọc một đoạn , nối tiếp nhau đến hết bài *Lưu ý: + Luyện đọc đúng các tiếng có âm đầu là phụ âm l, phụ âm n. + Tìm hiểu nghĩa của một số từ khó trong bài. + Thảo luận tìm câu văn cần lưu ý cách đọc mỗi đoạn văn và tìm cách ngắt nghỉ hơi. 2.Cử Tôi sẽ phân tích vấn đề này kỹ hơn ở các bài viết tiếp theo về từng giai đoạn của trí phán đoán. Trí phán đoán số 2: Bước qua giai đoạn đáp ứng phản xạ có điều kiện và hành động theo thói Bài viết này thuộc về trang Âm Dương và Ứng Dụng và blogger kenapa motor vario 150 tidak bisa hidup. Tài liệu hướng dẫn phân tích khổ thơ 2 bài Tràng giang - Huy Cận gồm tổng hợp nội dung kiến thức bổ trợ để giúp các em học sinh chuẩn bị tài liệu và viết bài được tốt hơn, đạt điểm cao dàn ý phân tích khổ 2 bài thơ Tràng giang và những văn bài phân tích khổ đầu bài thơ Tràng giang dẫn phân tích khổ 2 bài Tràng giangĐề bài Phân tích khổ thơ thứ hai bài Tràng giang - Huy Cận.“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,Đây tiếng làng xa vãn chợ chiều,Nắng xuống, trời lên sâu chót vótSông dài, trời rộng, bến cô liêu”.1. Phân tích đề- Yêu cầu phân tích nội dung khổ thơ thứ hai bài Tràng Phạm vi tư liệu, dẫn chứng từ ngữ, chi tiết tiêu biểu trong khổ thơ thứ hai của bài Tràng giang Huy Cận.- Phương pháp lập luận chính phân Hệ thống luận điểm- Luận điểm 1 Khung cảnh cồn bến hoang vắng trong nắng chiều- Luận điểm 2 Tâm trạng của thi Lập dàn ý chi tiếta Mở bài- Giới thiệu đôi nét về tác giả và tác phẩm+ Huy Cận 1919 - 2005 là nhà thơ tiêu biểu với tiếng thơ yêu đời, lạc quan và tràn đầy sức sống, một thi sĩ hàng đầu trong phong trào Thơ mới.+ Tràng giang là sáng tác tiêu biểu nhất của Huy Cận giai đoạn trước năm 1945, được in trong tập Lửa thiêng, là tiếng lòng của một chàng thi sĩ đa sầu đa Dẫn dắt vào vấn đề Khổ hai bài thơ đã tái hiện lên một khung cảnh cồn bến hoang vắng trong nắng chiều, tô đậm thêm nỗi cô đơn của con Thân bài* Khái quát chung- Hoàn cảnh sáng tác Bài thơ được sáng tác vào một buổi chiều thu vào năm 1939, Huy Cận đứng ở bờ Nam bến Chèm bên sông Hồng ngắm cảnh không gian mênh mang và nghĩ về kiếp người nhỏ bé, trôi nổi, vô Giá trị nội dung Bài thơ diễn tả tâm trạng, cảm xúc của thi nhân khi đứng trước cảnh sông nước bao la trong một buổi chiều đầy tâm Ý nghĩa nhan đề+ “Tràng giang” gợi hình ảnh một con sông dài, rộng lớn.+ Tác giả đã sử dụng từ Hán Việt để gợi không khí cổ kính trang nghiêm. Tác giả còn sử dụng từ biến âm “tràng giang” thay cho “trường giang”, hai âm "ang" đi liền nhau đã gợi lên trong người đọc cảm giác về con sông, không chỉ dài vô cùng mà còn rộng mênh mông, bát Câu thơ đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” gợi nỗi buồn sâu lắng trong lòng người đọc. Đồng thời cho người đọc thấy rõ hơn cảm xúc chủ đạo của tác giả xuyên suốt tác phẩm. Đó là tâm trạng “bâng khuâng”; nỗi buồn mênh mang, không rõ nguyên cớ nhưng da diết, khôn nguôi. Đó còn là không gian rộng lớn “trời rộng sông dài” khiến hình ảnh con người càng trở nên nhỏ bé, lẻ loi, tội nghiệp.* Phân tích khổ 2 bài thơ Tràng giangLuận điểm 1 Khung cảnh cồn bến hoang vắng trong nắng chiều- Nỗi lòng nhà thơ được gợi mở nhiều hơn qua hình ảnh quạnh vắng của không gian lạnh lẽo“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiuĐâu tiếng làng xa vãn chợ chiều+ Góc nhìn của nhân vật trữ tình lúc này bao quát hơn, rộng hơn khi từ cảnh sông Hồng chuyển sang không gian bao la của trời đất, bến bờ. Đó là một không gian vắng lặng, yên tĩnh có cảnh vật cồn, gió, làng, chợ… nhưng cảnh vật lại quá ít ỏi, nhỏ nhoi nhỏ, xa, vãn...+ Từ láy “lơ thơ” diễn tả sự thưa thớt, rời rạc của những cồn đất nhỏ nhoi mọc lên giữa dòng tràng giang. Trên những cồn đất nhỏ đó, mọc lên những cây lau, sậy, khi gió thổi qua thì âm thanh phát ra nghe man mác, nghe “đìu hiu” não ruột.+ Có âm thanh nhưng âm thanh ấy lại phát ra từ ngôi “chợ chiều” đã “vãn” mà làng lại xa nên không đủ sức làm cho cảnh vật sinh động, có hồn.+ Chỉ một câu thơ mà mang nhiều sắc thái gợi lên âm thanh xa xôi, không rõ rệt "Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều"“Đâu tiếng làng xa” có thể là câu hỏi "đâu" như một nỗi niềm khao khát, mong mỏi của nhà thơ về một chút sự hoạt động, âm thanh sự sống của con có thể là "đâu có", một sự phủ định hoàn toàn, vì chung quanh đây chẳng hề có chút gì sống động để xua bớt cái tịch liêu của thiên nhiên. Tất cả vẫn chỉ là sự im lặng bao trùm lên dòng chảy tràng điểm 2 Tâm trạng của thi Hai câu thơ tiếp theo, không gian được mở ra bát ngátNắng xuống, trời lên sâu chót vótSông dài, trời rộng, bến cô liêu”+ Huy Cận đã vẽ nên một khung cảnh không gian ba chiều rộng lớn có chiều cao nắng xuống, trời lên, có chiều rộng trời rộng và cả chiều dài sông dài, thậm chí là có cả độ “sâu”.-> Vũ trụ thì bao la, vô tận, còn con người thì quá nhỏ bé, cô độc lẻ loi.+ Nhà thơ nhìn lên bầu trời và thấy bầu trời “sâu chót vót”Cách dùng từ thật độc đáo vì nhà thơ không dùng từ “cao” mà dùng từ “sâu”.“Cao” chỉ độ cao vật lý của bầu trời, còn “sâu” không chỉ diễn tả được độ cao vật lí mà còn diễn tả được sự rợn ngợp trước không gian Đó chính là sự rợn ngợp trong tâm hồn của thi nhân trước cái vô cùng của vũ trụ.=> Cách sử dụng từ hết sức mới lạ bởi tác giả đã lồng chiều cao vào chiều sâu; ông đang ngắm cảnh bầu trời cao “chót vót” dưới mặt nước “sâu” thăm thẳm. Không gian càng rộng, hình ảnh con người lại càng nhỏ bé, cô độc, lẻ loi đến tội nghiệp.+ Hình ảnh “bến cô liêu” với âm hưởng man mác của hai chữ “cô liêu” ấy, một lần nữa lại gợi ra một nỗi buồn nhân thế, nỗi buồn về sự sống quá nhỏ nhoi, rất hữu hạn trong thiên nhiên, mà vũ trụ thì cứ mở ra mãi đến vô tận, vô cùng.=> Không gian càng vắng lặng rộng lớn bao la thì hình ảnh con người càng cô đơn đến tột cùng. Nỗi buồn lan tỏa khắp không gian, bao trùm lên cảnh vật.=> Khổ thơ thứ 2 cho ta thấy được tâm trạng buồn bã, băn khoăn, ngơ ngác trước những ngã rẽ của cuộc đời. Thi nhân cảm nhận rõ sự nhỏ bé, lẻ loi, cô độc của một kiếp người giữa dòng đời rộng lớn. Đây không phải là nỗi buồn của cá nhân ông mà là cảm xúc chung của cả một thế hệ, đặc biệt là giới văn nghệ sĩ đầu thế kỉ XX.* Đặc sắc nghệ thuật- Bài thơ là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa bút pháp cổ điển và hiện đại+ Cổ điển ở thể thơ, cách đặt nhan đề, bút pháp “tả cảnh ngụ tình”.+ Còn hiện đại trong việc xây dựng thi liệu, đặc biệt là cách dùng từ mới lạ “sâu chót vót”.- Sử dụng từ ngữ chọn lọc đắt giá, giàu giá trị gợi hình biểu Ngắt nhịp thơ hiệu Kết bài- Khái quát giá trị nội dung khổ thơ thứ 2 bài Vội vàng- Nêu cảm nhận của em. Với dàn ý phân tích khổ thứ hai bài Tràng giang chi tiết được Đọc tài liệu tổng hợp và biên soạn ở trên, kết hợp cùng với kiến thức phần soạn bài Tràng giang, các em có thể tự viết được bài văn phân tích khổ 2 bài Tràng giang hay dựa trên những bài phân tích tổng quan cả tác phẩm nhưVẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong Tràng giang - Huy CậnPhân tích bài thơ Tràng giang - Huy Cận4. Sơ đồ tư duy phân tích khổ 2 bài Tràng giang Dưới đây, Đọc tài liệu cũng đã tổng hợp được một số bài văn mẫu hay phân tích khổ thơ thứ hai bài Tràng giang để các em có thể tham khảo cách triển khai các ý văn và sử dụng từ ngữ trong bài văn cảm nhận của xuống trời lên sâu chót vótSông dài trời rộng bến cô liêuMột số bài văn hay phân tích khổ thơ thứ hai Tràng giangPhân tích khổ 2 bài Tràng giang - Bài 1Nếu cả bài thơ tràng giang là một bức tranh sông nước rợn ngợp những nỗi buồn, nỗi sầu thương thì khổ thứ hai trong bài đã gợi lên một khung cảnh hoang vắng đến xác xơ, tiều thơ cồn nhỏ gió đìu hiuĐâu tiếng làng xa vãn chợ chiềuNắng xuống trời lên sâu chót vótSông dài trời rộng bến cô nhận chung về những dòng thơ này là một khung cảnh hoang vắng. Làng xóm ven sông vắng lặng, cảnh sông nước thật mênh mang trong một không gian nhiều chiều. Câu thơ đã gợi ra cảnh tượng một vài cồn cát chạy nổi giữa dòng sông với sự đơn độc, lẻ loi. Trên những cồn cát đó chỉ thấy lơ thơ vài cây mọc hoang. Đây là dòng sông mùa nước, nước sông cứ dềnh mãi lên. Cảnh tượng thực này lại mang rất nhiều tính biểu tượng trong nó. Nếu trước đó ta thấy con thuyền bị vây bủa bởi những lớp sóng như những nỗi buồn điệp điệp thì ở đây ta lại gặp con người như những cồn cát nhỏ bé, chơi vơi đang bị dòng lũ cuộc đời nhấn chìm dần. Hình tượng thơ đó còn gợi lên cảm giác suy ngẫm về những cuộc đời trong xã hội cả đều được sắp đặt, an bài, đều bị phủ lấp. Hình ảnh những cồn cát lơ thơ giữa dòng nước gợi một cái gì thật buồn bã trước sự trùm phủ. Nó chẳng khác nào cành củi khô, nhỏ bé lập lờ giữa dòng nước mênh manh. Trong khung cảnh đó, thoáng những cơn gió đìu hiu. Cái cảm giác đìu hiu như lan tỏa, khung cảnh câu thơ như gợi ra sự quạnh quẽ, hoang tàn. Đây là sự kế thừa và sáng tạo bút pháp của Chinh phụ ngâm. Chính Huy Cận đã cho biếtông viết dòng thơ này với sự ảnh hưởng từ thơ Chinh phụ ngâm"Non Kì quạnh quẽ trăng treoBến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò”Câu thơ” Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều” có nhiều cách hiểu khác nhau. Đâu đó, đâu đây hình như đang vẳng lại những tiếng lao xao của cảnh chợ chiều. Những tiếng chợ chiều vẳng lại trong gió đã gợi được cái tĩnh lặng của khung cảnh. Phải yên tĩnh lắm mới có thể nghe được những âm thanh đó. Nhưng những tiếng lao xao của cảnh chợ chiều lại chỉ gợi ra những gì là tàn tạ, thê lương. Bởi còn gì buồn hơn cảnh chợ chiều, chợ ở đây vắng lặng đến tuyệt đối. Cảnh không những không có sự hoạt động của con người mà ngay đến âm thanh của hoạt động đó cũng không có. Dẫu sao thì cảnh ở đây vẫn thiếu một cái gì đó có thể lôi cuốn, vỗ về con người. Dù là có hay không có những âm thanh của tiếng chợ chiều, ta vẫn không thấy được bất kì mối liên hệ nào giữa những cồn cát lơ thơ và tiếng chợ chiều. Thế nhưng tất cả vẫn gắn với nhau trong một biểu hiện chung, gợi lên những cảm giác cô đơn, buồn bã và hiu xuống trời lên sâu chót vótSông dài trời rộng bến cô hai câu thơ này, ta lại thấy gợi lên một nỗi buồn mênh mang khắp sông dài trời rộng. Tạo vật ở đây có nhiều nét độc đáo. Độc đáo trước hết ở chỗ tạo dựng không gian những chữ “xuống, lên, dài, rộng, sâu” đã gợi được một không gian nhiều chiều, có cài gì thăm thẳm hun hút, lại có cái dài rộng, mênh mang. Chút nắng chiều sót lại, rơi xuống tạo cảm giác bầu trời như cao thêm lên. Những tia nắng của ngày tàn đó đang rơi vào thăm thẳm để đẩy bầu trời lên cao chót vót, xa vời. Nhưng cái nhìn của Huy Cận hướng về bầu trời lại thấy cảm giác sâu chót vót như ông bị hút vào cái thăm thẳm của bầu trời trong một cảm giác rợn ngợp không câu thơ này còn tạo nên sự đối nghĩa rất đặc sắc. Nếu câu thứ ba gợi cảm nhận về bầu trời cao thì câu thứ tư lại gợi về hình ảnh dòng sông dài, rộng mênh mang. Câu “nắng xuống trời lên sâu chót vót” gợi sự hiu hắt còn câu "sông dài trời rộng bến cô liêu” lại gợi một nỗi sầu dằng dặc. Mặt khác hai dòng thơ này còn tạo sự kết hợp mang cảm giác vũ trụ - cảm giác thường thấy ở thơ Huy Cận. Giữa hai dòng thơ ta còn thấy một sự đăng đối "sâu chót vót - bến cô liêu”. Sự đăng đối này tạo ra quan hệ ý nghĩa mối sầu chất ngất bắt đầu từ cái thăm thẳm của bến cô liêu. Huy Cận đã dùng cái thực tế để biểu hiện cái hư ảo khó thấy và lại dùng cái hư ảo để lột tả tinh thần của cái thực tế đến tàn với những dòng thơ này ta còn thấy nỗi buồn của Huy Cận đã vượt khỏi lòng mình để nhuộm sầu cả vũ trụ. Nhân vật trữ tình trong Tràng giang có nỗi buồn mênh mang, trải khắp và thấm đượm cả một không gian bát ngát, bao la. Sông dài, trời rộng, vũ trụ mênh mang và nỗi buồn của con người cũng là vô tận. Phân tích khổ thơ thứ hai bài Tràng giang thấy rõ rằng Nếu trước đó ta thấy sự tương phản giữa cành củi và dòng sông thì ở đây ta lại gặp sự đối lập giữa bến cô liêu và sông dài trời rộng. Đây vẫn là cái nhìn tương quan trong cảm giác về con người giữa vũ trụ vô thơ thứ hai khép lại trong cái cô liêu chơi vơi của cả lòng người và tạo vật. Huy Cận thực tài tình khi đã dựng tả cả một bức tranh trời nước mênh mang mà đầy tâm tư sâu tích khổ 2 bài Tràng giang - Bài 2“Tràng giang” là bài thơ kiệt tác của Huy Cận rút trong tập thơ “Lửa thiêng” 1940. Bài thơ có một câu đề từ rất đậm đà "Bâng khuâng trời rộng, nhớ sông dài”. Tác giả đã có lần nói “Tràng giang là một bài thơ tình và tình gặp cảnh, một bài thơ về tâm hồn”, “Tràng giang” tiêu biểu cho vẻ đẹp của hồn thơ Huy Cận trước cách mạng hàm súc, cổ điển, giàu chất suy tưởng triết lí, thấm thía một nỗi buồn nhân thế “sầu trăm ngả".Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn trường thiên, có 4 khổ thơ hợp thành một bộ tứ bình về tràng giang một chiều thu. Đây là khổ thơ thứ hai của “Tràng giang”“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,Đây tiếng làng xa vãn chợ chiều,Nắng xuống, trời lên sâu chót vótSông dài, trời rộng, bến cô liêu”.Từ dòng sông, sóng gợn, con thuyền xuôi mái và cành củi khô bập bềnh trôi dạt trên sông, ở khổ một, Huy Cận nói đến cảnh tràng giang một buổi chiều mênh mông, vắng vẻ. Giọng thơ nhè nhẹ man mác buồn. Không gian nghệ thuật được mở rộng về đôi bờ và bầu trời. Những cồn cát thưa thớt nhấp nhô “lơ thơ” như nối tiếp mãi dài ra. Gió chiều nhè nhẹ thổi “đìu hiu” gợi buồn khôn xiết kể. Hai chữ “đìu hiu” gợi nhớ trong lòng người đọc một vần thơ cổ“Non Kì quạnh quẽ trăng treo,Bến Phi gió thổi đìu hiu mấy gò".Chinh phụ ngâmLàng xóm đôi bờ sông, trong buổi chiều tàn cũng rất vắng lặng. Một chút âm thanh nhỏ bé lao xao trong khoảnh khắc tan chợ, vãn chợ ở đâu đây, ở từ một làng xa vẳng đến. Lấy động để tả tĩnh, câu thơ “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều” đã làm nổi bật sự ngạc nhiên, chút bâng khuâng của người lữ khách về cái vắng vẻ, cái hoang vắng của đôi bờ tràng giang. Các nhà Thơ mới coi trọng tính nhạc trong thơ, vận dụng nghệ thuật phối âm, hòa thanh rất thần tình, tạo nên những vần thơ giàu âm điệu, nhạc điệu, đọc lên nghe rất thích. Hai câu thơ đầu đoạn có điệp âm “lơ thơ” và “đìu hiu”, có vần lưng “nhỏ - gió”, có vần chân “hiu - chiều”. Câu thơ của Huy Cận làm ta liên tưởng đến câu thơ của Xuân Diệu“Con đường nhỏ nhỏ gió xiêu xiêu,Lả lả cành hoang nắng trở chiều...”Thơ duyênCác điệp thanh “Nhỏ nhỏ”, “xiêu xiêu”, “lả lả”; các vần thơ, như vần lưng “nhỏ" với “gió”, vần chân “xiêu” với “chiều”. Những vần thơ “tươi nhạc tươi vần” ấy đã trở thành thơ trong trí nhớ của hàng triệu con người yêu thích văn lại đoạn thơ trong bài “Tràng giang” của Huy Cận, ta như được nhập hồn mình vào cõi vũ trụ mênh mông và bao la. Trời đã về chiều. Nắng từ trên cao chiếu rọi xuống làm hiện ra những khoảng sâu thăm thẳm trên bầu trời, vẻ đẹp của bầu trời thu quê hương ta đã trở thành vẻ đẹp của thi ca dân tộc “Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao” Thu vịnh; và “Trời cao xanh ngắt - ô kìa...” Tiếng sáo Thiên Thai; “xanh biếc trời cao, bạc đất bằng” Xuân Diệu. Thi sĩ Huy Cận lại nhận diện bầu trời không phải là cao mà là sâu, “sâu chót vót”Nắng xuống, trời lên sâu chót vótBầu trời và lòng sông “sóng gợn” là không gian hai chiều, rộng và cao, sâu. Trời cao thăm thẳm, rộng mênh mông in xuống, soi xuống lòng sông. Người ta thường nói “cao chót vót” và “sâu thăm thẳm”, nhưng Huy Cận lại cảm nhận là “sâu chót vót” vừa để làm nổi bật hai vế tiểu đối “nắng xuống” và “trời lên”, vừa gây ấn tượng về cái bao la, mênh mông đến rợn ngợp của không gian vũ trụ vô tận, và cũng là nỗi buồn như vô tận trong lòng người. Khách li hương càng cảm thấy nhỏ bé, lẻ loi và cô đơn trước không gian vô hạn của vũ sông như dài thêm ra, bầu trời như rộng thêm ra, bến đò hay bến lòng? như cô liêu hơn. xa vắng quạnh hiu hơn. Lời đề từ nhà thơ đã viết "Bâng khuâng trời rộng, nhớ sông dài", cảm hứng ấy đã được láy lại ở thơ số 8, mở ra một trường liên tưởng đầy ám ảnh về vũ trụ thì vô hạn vô cùng, còn kiếp người thì nhỏ bé, hữu hạnSông dài, trời rộng bến cô liêuPhân tích khổ thơ thứ hai bài Tràng giang mới thấy rõ cảnh sắc tràng giang là một không gian nghệ thuật đẹp mà buồn, vẻ đẹp của những dòng sông trên mọi miền đất nước hội tụ trong tâm hồn thi nhân, vẻ đẹp của tình yêu quê hương, tình yêu sông núi. Tình yêu đó mang nỗi buồn sông núi, nỗi buồn về đất nước của Huy Cận, của thế hệ các nhà thơ thời tiền chiến. “Tràng giang” đã hợp lưu trong lòng người hơn 60 năm rồi. Đọc đoạn thơ trên, ta mới thấu hiểu nỗi lòng thi nhân trước Cách mạng “Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm...”.-/-Với những phần nội dung gợi ý cho đề bài Phân tích khổ thơ thứ hai bài Tràng giang - Huy Cận được Đọc tài liệu tổng hợp phía trên, hi vọng các em học sinh sẽ có được những bài văn hay và ý nghĩa về tác phẩm đầy ấn tượng của Huy Cận. 1. Hướng dẫn phân tích 2 khổ thơ đầu bài Tràng Phân tích yêu cầu đề Luận điểm 2 khổ thơ đầu Tràng Giang2. Lập dàn ý chi tiết3. Một số bài văn bài số bài số bài số bài số 4Tài liệu hướng dẫn phân tích hai khổ thơ đầu bài Tràng giang do Đọc Tài Liệu biên soạn gồm gợi ý cách làm bài, dàn ý chi tiết cùng một số bài văn mẫu hay tham khảo phân tích nội dung 2 khổ đầu bài thơ Tràng giang của Huy đang xem Phân tích khổ 1 2 bài tràng giangCùng tham khảo ngay...I. Hướng dẫn phân tích 2 khổ thơ đầu bài Tràng giang Huy CậnĐề bài Phân tích hai khổ thơ đầu bài Tràng giang - Huy Cận Đề bài Phân tích hai khổ đầu bài Tràng giang - Huy Cận là một đề bài ngắn và dễ gặp mỗi khi nhắc tới tác phẩm này. Vì vậy chuyên mục Văn mẫu 11 của Đọc tài liệu cũng đã tổng hợp những nội dung kiến thức bổ trợ để giúp các em học sinh chuẩn bị tài liệu và viết bài được tốt hơn, đạt điểm cao lập dàn ý 2 khổ thơ đầu bài Tràng giang và những văn bài phân tích khổ đầu bài thơ Tràng giang hay Phân tích yêu cầu đề bài- Yêu cầu về nội dung phân tích nội dung, nghệ thuật trong 2 khổ đầu bài thơ Tràng Phạm vi tư liệu, dẫn chứng từ ngữ, chi tiết, hình ảnh tiêu biểu trong 2 khổ thơ đầu bài Tràng giang của Huy Phương pháp lập luận chính phân Luận điểm 2 khổ thơ đầu Tràng Giang- Luận điểm 1 Bức tranh thiên nhiên mênh mang, bất tận khổ 1- Luận điểm 2 Không gian và thời gian qua bài thơ khổ thơ 2II. Lập dàn ý chi tiết phân tích 2 khổ đầu Tràng giang1. Mở bài 2 khổ đầu Tràng giang- Giới thiệu sơ lược về tác giả, tác phẩm+ Huy Cận là một trong những nhà thơ mới nổi tiếng với những tác phẩm mang phong cách rất riêng.+ Bài thơ Tràng giang 1939 bộc lộ nỗi sầu của một cái tôi cô đơn trước thiên nhiên rộng lớn, trong đó thấm đượm tình người, tình đời, lòng yêu nước thầm kín mà thiết tha- Giới thiệu 2 khổ thơ đầu Hai khổ thơ đầu bài đã gợi ra cả không gian rợn ngợp, nhưng tâm trạng của con người lại mang cảm giác sầu buồn, cô đơn, nỗi buồn như trải dài vô dụMột trong những nhà thơ mới nổi tiếng là nhà thơ Huy Cận, mỗi bài thơ mang một phong cách rất riêng. Thơ của Huy Cận mang phong cách thơ hàm súc, triết lí và phục vụ cho cách mạng của nước ta. Một trong những tác phẩm thơ nổi tiếng là Tràng giang, bài thơ nằm trong tập thơ Lửa thiêng. Bài thơ thể hiện cảnh thu 1939, được sáng tác khi tác giả nhìn bên bờ sông Hồng dưới dòng nước mênh mông sóng nước. Đặc sắc nhất là hai khổ thơ đầu của bài thơ Tràng giang. Chúng ta cùng đi tìm hiểu khổ thơ cuối của bài thơ để hiểu rõ hơn về phong cách thơ của Huy Thân bài 2 khổ đầu Tràng giang*. Khái quát những nội dung cần phân tích thông qua mẫu sơ đồ tư duy Tràng giang* Khổ 1 Bức tranh thiên nhiên mênh mang, bất tậnNhững vòng nước xô đuổi nhau đến tận chân trờiQua khổ thơ còn thể hiện nổi buồn miên man của tác giảSự trôi nổi, phó mặc của tác giả trên dòng sông hữu tìnhTâm trạng chia li, tán tác* Khổ 2 Không gian và thời gian qua bài thơKhông gian hoang vắng, đìu hiuKhông gian vắng lặng, tĩnh mịchKhông gian được đẩy vô tậnCảnh vật khiến con người trở nên nhỏ bé3. Kết bài 2 khổ đầu Tràng giang- Nêu cảm nhận của em về 2 khổ đầu bài thơ Tràng dụHai khổ thơ đầu của bài thơ Tràng giang thể hiện bức tranh thiên nhiên bất tận và không gian của cảnh núi non. Bên cạnh đó tác giả còn thể hiện niềm yêu quê hương, đất nước của tác giả. Qua bài thơ ta có hiểu được phong cách thơ nổi bật của tác giả Huy thêm Mái Tôn Tiếng Anh Là Gì ? Từ Vựng Tiếng Anh Về Các Loại Tôn Mái Che //Với dàn ý phân tích 2 khổ thơ đầu của bài Tràng giangchi tiết được Đọc tài liệu sưu tầm ở trên, kết hợp cùng với kiến thức phần phân tích bài thơTràng giang, các em sẽ tự viết được những bài văn hay phân tích hai khổ đầu bài Tràng giang dựa trên những bài phân tích tổng quan cả tác phẩm nhưVẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong Tràng giang - Huy CậnBức tranh thiên nhiên trong bài thơ Tràng giang Thêm vào đó, Đọc tài liệu cũng tổng hợp những bài văn mẫu phân tích 2 khổ thơ đầu trong bài Tràng giang của các thầy cô, các bạn học sinh trên mọi miền Tổ quốc để các em có thể tham khảo cách triển khai các ý văn và sử dụng từ ngữ trong bài văn cảm nhận thật phong gợn tràng giang buồn điệp điệpCon thuyền xuôi mái nước song songII. Một số bài văn mẫu phân tích hai khổ thơ đầu bài Tràng giang Top những bài văn phân tích 2 khổ cuối bài Tràng Giang được chúng tôi tổng hợp dưới đây sẽ giúp các em học sinh có thể cảm nhận được khung cảnh thiên nhiên sông nước rộng lớn nhưng đìu hiu cùng với đó là sự tâm trạng chất chứa những nỗi buồn của người thi nhân trước cuộc đời rộng lớn. Dàn ý bài văn phân tích 2 khổ cuối bài Tràng GiangTop 12 bài văn mẫu phân tích 2 khổ cuối bài Tràng Giang chọn lọc hay nhất!Phân tích 2 khổ cuối bài Tràng Giang- Mẫu 1Phân tích 2 khổ cuối bài Tràng Giang- Mẫu 2Phân tích 2 khổ cuối bài Tràng Giang- Mẫu 3Phân tích 2 khổ cuối bài Tràng Giang- Mẫu 4Phân tích 2 khổ cuối bài Tràng Giang- Mẫu 5Phân tích 2 khổ cuối bài Tràng Giang- Mẫu 6 Phân tích 2 khổ cuối bài Tràng Giang- Mẫu 7Phân tích 2 khổ cuối bài Tràng Giang- Mẫu 8Phân tích 2 khổ cuối bài Tràng Giang- Mẫu 9Phân tích 2 khổ cuối bài Tràng Giang- Mẫu 10 Phân tích 2 khổ cuối bài Tràng Giang- Mẫu 11Phân tích 2 khổ cuối bài Tràng Giang- Mẫu 12Lời kết Dàn ý bài văn phân tích 2 khổ cuối bài Tràng Giang Mở bài *Giới thiệu tác giả, tác phẩm và 2 khổ thơ cuối của bài thơ Tràng giang. Thân bài *Khổ 3 Hình ảnh những cánh “bèo dạt” lại gợi lên cảm giác chia li đã xuất hiện từ đầu thi phẩm. Sự cô quạnh đã được đặc tả bằng cái không tồn tại không gian mênh mông, trong đó không có bất cứ dấu hiệu nào là của thế giới con người không cầu, không chuyến đò ngang. Nỗi buồn này như vậy không chỉ là nỗi buồn giữa trời rộng, sông dài mà còn là nỗi buồn về cuộc đời và nhân thế. *Khổ cuối – Hai câu đầu màu sắc cổ điển của các hình ảnh thiên nhiên Các hình ảnh mây, núi, gió được thể hiện rất rõ và nổi bật qua đoạn thơ Hình ảnh lớp mây thể hiện nỗi buồn của tác giả vô bờ Hình ảnh cánh chim lẻ loi, thể hiện nỗi buồn của tác giả thêm sâu nặng Hình ảnh cánh chim không chỉ báo hiệu hoàng hôn mà còn chỉ cái tôi nhỏ nhoi, cô độc của tác giả – Hai câu cuối Nhà thơ có cảm giác nhớ quê hương khi đứng trước cảnh thiên nhiên Nỗi buồn của Huy Cận được thể hiện rất sâu sắc và nổi bật Khát vọng sự đẹp đẽ, tươi đẹp về quê hương đất nước, góp sức mình cho quê hương, đất nước Kết bài *Khẳng định giá trị và nêu cảm nhận về hai khổ thơ cuối của bài thơ Tràng giang. Top 12 bài văn mẫu phân tích 2 khổ cuối bài Tràng Giang chọn lọc hay nhất! Dưới đây là top 12 bài văn mẫu phân tích 2 khổ cuối bài Tràng Giang chọn lọc hay nhất dành cho các em học sinh tham khảo! Phân tích 2 khổ cuối bài Tràng Giang- Mẫu 1 Có nhà phê bình nào đó đã tinh tế nhận xét rằng Thơ Huy Cận không phải rượu rót vào chén tức là không say nồng mà là men đang lên; không phải hoa trên cành tức không khoe sắc rực rỡ mà là nhựa đang chuyển. Đúng thế! Cái hồn thơ bề ngoài tưởng lặng lẽ mà rất cao, rất rộng trong thơ ông không dễ gì nắm bắt. Đọc “Tràng giang” – bài thơ trang trọng, cổ kính, đậm đà cốt cách Đường thi mà giản dị mới lạ, độc đáo in rõ dấu ấn của thơ lãng mạn đương thời – mới thấy nhận định trên là đúng. Là Tràng Giang khổ nào cũng dập dềnh sóng nước, Là tâm trạng, khổ nào cũng lặng lẽ u buồn. Hai khổ cuối của bài thơ đã góp phần tạo nên điều ấy Bèo dạt về đâu hàng nối hàng; Mênh mông không một chuyến đò ngang … Lòng quê dợn dợn vời non nước, Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà. Âm hưởng trầm trầm, chất ngất u buồn của những câu thơ đầu tiên lan rộng đến hai khổ cuối. Từ một cành củi khô ở trước đến hình ảnh “bèo dạt” vô định vô phương ở sau đều gợi lên sự chia li “tan” mà không “hợp”. Bèo dạt về đâu hàng nối hàng; Mênh mông không một chuyến đò ngang Không cầu gợi chút niềm thân mật, Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng. Trước cảnh “mênh mông” sông dài trời rộng, cánh bèo xanh nổi như nét điểm xuyết gợi lên cả kiếp người bé nhỏ và vô định. Hình ảnh không phải mới, vốn dĩ đã xuất hiện khá nhiều trong ca dao và thơ cổ nhưng đặt trong dòng “Tràng giang” vẫn đủ sức khiến người thưởng thức cảm nhận rõ rệt thêm cái mênh mông của đất trời, cái xa vắng của thời gian, cái vô cùng của thiên nhiên tạo hóa. Cảnh bao la nhưng vắng bặt bóng dáng con người. Điệp từ “không” như điểm nhấn cho sự vắng ở đây. Song nhưng không có “đò”, không hề có cảnh “cô chu trấn nhật các sa miên” hãy “bến My Lăng nằm không thuyền đợi khách”. Cả dáng cầu nghiêng nghiêng, “cầu bao nhiêu nhịp thương mình bấy nhiêu” cũng không hề xuất hiện, tất cả đều “lặng lẽ”, chỉ có thiên nhiên “bờ xanh” nối tiếp thiên nhiên bãi vàng. Gam màu lạnh. Cảnh quạnh quẽ càng thêm quạnh quẽ, u buồn càng chất ngất u buồn hơn. Cánh bèo trôi hay chính con người đang lạc loài giữa cái mênh mông của đất trời, cái xa vắng của thời gian? Huy Cận là một nhà thơ mới, ảnh hưởng khá nhiều dòng thơ lãng mạn Pháp. Thế nhưng, ông còn là người thuộc nhiều, ảnh hưởng nhiều phong cách trang trọng, cổ kính của thơ Đường. Cốt cách ấy được thể hiện rõ nét trong khổ thơ cuối Lớp lớp mây cao đùn núi bạc Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa Lòng quê dợn dợn vời con nước, Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà. Bậc thánh thi Đỗ Phủ đời Đường lại có câu Giang giang ba lãng kiêm thiên dũng Tái thượng phong vân tiếp địa âm. Thu hứng Được Nguyễn Công Trứ dịch một cách tài hoa rằng Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳm Mặt đất mây đùn cửa ải xa. Ý thơ của Đỗ Phủ đã được tái hiện độc đáo qua ngòi bút của Huy Cận Lớp lớp mây cao đùn núi bạc. Từ láy “lớp lớp” khiên mây dày đặc thêm, nhiều tầng nhiều lớp thêm, nên khiến núi ánh lên sắc bạc huyền hoặc như trong mộng. Tứ thơ cao nhã lắm thay! Trong cái tĩnh gần như tuyệt đối của trang thơ, cánh chim có lẽ là chút hồn động nhất. Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa Đã là “cánh nhỏ” mà lại chao nghiêng nên nét thanh mảnh của cánh chim càng nâng thêm một bậc. Sắc hoàng hôn bát ngát trên trang thơ, cánh chim bé bỏng nghiêng chao gợi lên niềm xúc cảm? Sẽ chẳng bao giờ ta quên được ý thơ…Giữa không gian cô tịch, ngẩng nhìn lên cao rồi lại cúi trông mặt nước Lòng quê dợn dợn vời con nước Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà. Tư thế ấy có khiến ta liên tưởng đến Lý Bạch “Cử đầu vọng minh nguyệt – Đê đầu tư cố hương?”. Âm hưởng hai câu thơ Đường thi tuyệt tác của Thôi Hiệu phảng phất ở đây Nhật mộ hương quan hà xứ thị Yên ba giang thượng sử nhân sầu. Thế nhưng Thôi Hiệu phải có “khói sóng” mới “buồn lòng ai”. Còn nhà thơ của chúng ta “không khói hoàng hôn” mà “lòng quê” vẫn “dợn dợn vời con nước”! Từ láy “dợn dợn” và từ “vời” khiến nỗi buồn triền miên, xa xôi, dàn trải mãi đến vô tận, đến khôn cùng! Nhận xét về Huy Cận, nhà phê bình Hoài Thanh từng viết “Huy Cận có lẽ đã sống một cuộc đời rất bình thường, nhưng ông luôn lắng nghe mình sống để ghi lấy cái nhịp nhàng lặng lẽ của thế giới bên trong”. Đọc những vần thơ của thi nhân, chỉ mong cảm nhận và hiểu thêm một chút về con người thơ ấy. Sau khi phân tích 2 khổ cuối bài Tràng giang, chúng ta sẽ hi vọng một điều rằng “Tràng giang” sẽ còn mãi trôi, lấp lánh trên thi đàn Việt Nam, mãi trôi để nhớ để thương trong lòng người đọc. Phân tích 2 khổ cuối bài Tràng Giang- Mẫu 2 Khác với hồn thơ sôi nổi, nhiệt huyết gắn với công cuộc đổi mới sau cách mạng tháng 8. Thơ Huy Cận những năm trước cách mạng lại mang nét u sầu, buồn bã trước thời cuộc. Chẳng thế mà “Tràng giang” ra đời lại khắc họa nét cô đơn của cá thể trước không gian bao la của thiên nhiên. Cùng với nét u buồn khắc khoải trước không gian mênh mông, bài thơ còn là nỗi nhớ quê hương, thương đất nước đang chìm trong tang thương của thi sĩ qua hai khổ thơ cuối của bài. Bài thơ được sáng tác vào năm 1939 in lần đầu tiên trên báo “Ngày nay” sau đó in trong tập “Lửa thiêng” – tập thơ đầu tay của Huy Cận. Cũng chính tập thơ này đã đưa ông trở thành gương mặt tiêu biểu của phong trào “Thơ mới” thời kì đầu. Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng; Mênh mông không một chuyến đò ngang. Không cầu gợi chút niềm thân mật, Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng. Hình ảnh trong khổ thơ thứ ba đã bước đầu có chuyển động với động từ “dạt”, nhưng sự vật đi kèm với động từ này là “bèo”. “Bèo” vốn là hình ảnh tượng trưng cho sự bấp bênh, chìm nổi, không có nơi ở ổn định. Đã thế cụm từ “hàng nối hàng” càng diễn tả sự vô định, chông chênh khi hàng này đến hàng khác “nối đuôi” nhau. Không gian đối lập với thực tại của cảnh vật. Tác giả mong ngóng có thể nhìn thấy chuyến đò để cảm nhận được sự sống. Nhưng đáp lại sự mong chờ ấy là “không một chuyến đò ngang”. Ở khổ thơ này, thi sĩ sử dụng nhiều từ phủ định “không đò” và giờ tiếp đến là “không cầu”. Hình ảnh chiếc cầu gợi lên dáng vẻ miền quê, mang nỗi niềm “thân mật”. Nhưng vì hình ảnh này không có nên thành ra cảm giác xa lạ, cô đơn được cảm nhận rõ. Với câu thơ cuối của khổ tác giả sử dụng nhiều màu sắc để chấm phá cho bức tranh. “Bờ xanh tiếp bãi vàng” – sắc tranh tươi sáng, nổi bật nhưng đi kèm với từ láy “lặng lẽ” làm chìm màu sắc này xuống. Giờ đây hai hình ảnh này không còn được tươi tắn như màu sắc ban đầu của nó. Từ láy này cũng làm cho không khí đìu hiu “lây lan” từ vật này sang vật khác. Tất cả sự vật đều nhấn chìm trong cô độc. Nếu khổ thơ thứ 3 là bức tranh thiên nhiên buồn, vắng lặng thì khổ thơ cuối cùng chính là tâm tư, tấm lòng của thi sĩ Lớp lớp mây cao đùn núi bạc, Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa. Lòng quê dợn dợn vời con nước, Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà. Xuyên suốt bài thơ tác giả liên tục sử dụng thủ pháp nghệ thuật là từ láy. “Lớp lớp” – chồng chất lên nhau, “đùn” là đè lên làm cho một vật gì đó hạ thấp xuống. Như vậy, với câu thơ đầu khổ bốn tác giả lại vẽ tiếp bức tranh quê hương với hình ảnh rộng lớn nhiều lớp mây đè lên núi bạc. Hình ảnh “chim nghiêng cánh nhỏ” gợi cảm giác nhỏ bé, bơ vơ. “Nghiêng” – không vững vàng. Hình ảnh này đối lập với vế ở sau “bóng chiều sa”. Trên nền bóng chiều rộng lớn là hình ảnh cánh chim nhỏ lo âu, còn đang mơ hồ cho con đường tìm nơi trú của mình. Hình ảnh cánh chim này đã từng bắt gặp trong “Quyện điểu quy lân tầm túc thụ” Mộ – Hồ Chí Minh, tạm dịch “Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ”. Đến với câu thơ thứ ba tác giả đã nói lên nỗi lòng nhớ quê của mình. “Dợn dợn” là gợi lên, dấy lên, có nỗi niềm khó nói. Cứ mỗi khi nhìn thấy “con nước” là lòng yêu quê hương của tác giả lại dâng lên. Tuy nhiên, nét đặc sắc lại nằm ở câu thơ cuối cùng “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Hơn nghìn năm trước Thôi Hiệu cũng từng chạnh lòng nhớ quê mà thốt lên rằng Nhật mộ hương quan hà xứ thị Yên ba giang thượng sử nhân sầu Quê hương khuất bóng hoàng hôn Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai? Nỗi buồn của hai thi sĩ có một số điểm khác nhau. Ở Thôi Hiệu do nhìn thấy khói sóng trên dòng sông nên buồn và nhớ về quê nhà, còn ở Huy Cận không nhìn thấy khói nhưng nỗi nhớ nhà vẫn dâng lên da diết. Nếu như Thôi Hiệu nhớ nhà là do đang xa xứ, đang ở xứ người còn nỗi nhớ của Huy Cận xuất phát từ một người đang đứng trên mảnh đất của mình nhưng bơ vơ, lạc lõng. Nỗi nhớ thương cũng xuất phát từ sự bất lực, ngán ngẩm của bản thân thi sĩ trước thời cuộc. Phân tích 2 khổ cuối bài Tràng Giang- Mẫu 3 Huy Cận là gương mặt nhà thơ tiêu biểu trong phong trào Thơ mới của Việt Nam. Trước cách mạng tháng Tám, thơ ông chất chứa một nỗi buồn man mác, đó là nỗi buồn của người trí thức luôn đau đáu một nỗi niềm trước thời thế loạn lạc. “Tràng giang” được coi là bài thơ tiêu biểu nhất cho tài năng và phong cách sáng tác ấy. Đặc biệt, trong 2 khổ thơ cuối của bài, nhà thơ đã tái hiện đầy khắc khoải nỗi buồn thương, sầu não của một con người đang cảm thấy lạc lõng, cô độc giữa cuộc đời rộng lớn. Nếu như những khổ thơ đầu, nhà thơ Huy Cận tập trung miêu tả khung cảnh sông nước, mây trời rộng lớn, rợn ngợp thì ở hai khổ thơ cuối, nhà thơ đã trực tiếp bộc lộ tâm trạng phiền não và những suy nghĩ sâu sắc về cuộc đời, về kiếp người Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng; Mênh mông không một chuyến đò ngang. Không cầu gợi chút niềm thân mật, Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng. Hình ảnh “bèo dạt” không chỉ mang ý nghĩa tả thực về cảnh vật mà nhà thơ bắt gặp trên sông mà còn gợi ra sự nhỏ bé, trôi nổi lênh đênh của những kiếp người giữa cuộc đời rộng lớn. Sông nước mênh mông, rộng lớn nhưng buồn vắng đến cùng cực “Mênh mông không một chuyến đò ngang”, dù cố gắng tìm kiếm nhưng nhà thơ không tìm thấy dù một “chút niềm thân mật”. Câu thơ “Không cầu gợi chút niềm thân mật” tựa như một tiếng thở dài đầy bất lực của nhà thơ khi chẳng thể tìm kiếm được một chút hơi ấm của con người, của sự sống. Điệp từ “không” đã cực tả sự vắng lặng của không gian, nó phủ định tất cả những gì gắn kết giữa con người và thiên nhiên sông nước, không có con đò, không cầu, không chút niềm thân mật. Tất cả mở ra trước mắt của nhà thơ chỉ có sự rộng lớn, hoang vắng đến rợn ngợp. Từ láy “lặng lẽ” cực tả sự vắng lặng đồng thời cũng gợi ra sự tồn tại nhạt nhòa, không mang đến ấn tượng sâu đậm của “bờ xanh”, “bãi vàng”. Sự xuất hiện của bờ, bãi hai bên sông cùng những hình ảnh gợi liên tưởng đến sự sống xanh, vàng vẫn không đủ để làm cho bức tranh sông nước bớt đi phần hiu quạnh, trống vắng bởi bờ xanh, bãi vàng chỉ là những cảnh vật vô tri, nó không “chút thân mật”, giao hòa gì với nhau. Và cũng bởi lẽ, khi con người mang nỗi sầu muộn thì cảnh vật cũng trở nên ảm đạm, đìu hiu hơn giống như nhà thơ Nguyễn Du từng nói “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” Giữa trời đất rộng lớn, mênh mông nhưng nhà thơ Huy Cận lại không tìm được một tiếng nói đồng cảm, tri âm, không có một ai có thể thấu hiểu được tâm trạng và những nỗi buồn đang giăng kín trong tâm hồn nhà thơ. Nỗi phiền muộn, u sầu không thể giãi bày, chỉ có thể tự mình giữ lấy nên nó càng nhức nhối, khắc khoải. Lớp lớp mây cao đùn núi bạc, Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa. Lòng quê dợn dợn vời con nước, Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà. Không thể tìm thấy một chút giao cảm từ khung cảnh sông nước, nhà thơ Huy Cận hướng sự chú ý của mình đến không gian rộng lớn, khoáng đạt của hoàng hôn. Từ láy “lớp lớp” gợi liên tưởng đến rất nhiều sự vật chất chồng lên nhau. “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc” mở ra khung cảnh huy hoàng, tráng lệ với những đám mây bàng đan xen, xếp chồng lên nhau. Động từ “đùn” gợi ra sự tiếp diễn, dâng lên ngày càng mạnh mẽ. Chúng ta cũng từng bắt gặp trong thơ Nguyễn Trãi “Rồi hóng mát thuở ngày trường Hòe lục đùn đùn tán rợp giương” Câu thơ “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc ” thật đẹp nhưng cũng thật buồn bởi nó càng tô đậm thêm sự trống trải, hoang vắng. Hình ảnh những đám mây lớp lớp còn gợi ra những cảm xúc bộn bề cứ khoắc khoải, xếp chồng lên nhau. Sự xuất hiện của hình ảnh cánh chim trong “bóng chiều xa” càng tô đậm nỗi trống vắng, cô đơn trong tâm hồn của nhà thơ. Giữa khung cảnh hùng vĩ, huy hoàng của những đám mây bàng bạc, cánh chim càng trở nên nhỏ bé, nó cũng giống với tâm trạng cô đơn, lạc lõng của nhà thơ giữa cuộc đời rộng lớn. “Lòng quê dợn dợn vời con nước, Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” Từ láy “dợn dợn” là sáng tạo đặc biệt của nhà thơ Huy Cận, khi được hô ứng với “vời con nước” đã khắc họa sống động nỗi niềm bâng khuâng, cô quạnh của một con người đang nhớ về quê hương. Khói hoàng hôn trong thơ ca cổ điển thường là dấu hiệu gợi nhắc con người ta nhớ về quê hương, trong thơ Thôi Hiệu có viết “Nhật mộ hương quan hà xứ thị/Yên ba giang thượng sử nhân sầu”. Thế nhưng, nếu những thi nhân xưa nhìn khói trên sông nhớ về quê nhà thì nỗi nhớ của Huy Cận da diết, khắc khoải hơn, nhà thơ không nhìn khói hoàng hôn vẫn nhớ nhà. Có lẽ rằng nỗi nhớ luôn thường trực trong lòng nhà thơ nên dù không có “chất xúc tác”, nhà thơ vẫn khôn nguôi một tấm lòng quê. Hai khổ thơ cuối của bài thơ Tràng giang không chỉ mở ra trước mắt chúng ta khung cảnh sông nước mênh mông, rợn ngợp mà còn bộc lộ nỗi lòng sầu muộn của người thi nhân. Hai khổ thơ gieo vào lòng người đọc một nỗi buồn man mác, thế nhưng nỗi buồn ấy cũng thật đẹp bởi đó đều là những cảm xúc quen thuộc, có phần mơ hồ mà chúng ta vẫn thường trải qua, thế nhưng qua ngòi bút của Huy Cận nó lại thật thơ, thật da diết. Như nhà phê bình Hoài Thanh cũng từng nhận định “Huy Cận lượm lặt những chút buồn rơi rác để rồi sáng tạo nên những vần thơ ảo não. Người đời sẽ ngạc nhiên vì không ngờ với một ít cát bụi tầm thường thì người lại có thể đúc thành bao châu ngọc”. Phân tích 2 khổ cuối bài Tràng Giang- Mẫu 4 Độc giả biết đến hồn thơ của Huy Cận trước cách mạng là một hồn thơ sầu, buồn trước nỗi sầu nhân thế. Đến với bài thơ “Tràng giang”, ta lại bắt gặp một nỗi buồn, cô đơn sâu sắc của tác giả trước cuộc đời. Đặc biệt, nỗi sầu buồn ấy được làm nổi bật trong hai khổ thơ cuối của bài thơ. Khổ thơ thứ 3 đã gợi ra hình ảnh một kiếp người nhỏ bé, vô định, chênh vênh trước dòng đời mang nét cổ kính “Bèo dạt về đâu hàng nối hàng Mênh mông không một chuyến đò ngang Không cầu gợi chút niềm thân mật Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng” Hình ảnh “bèo dạt” như gợi bão tố của cuộc đời đang xô đẩy số phận một con người nhỏ bé như hình ảnh bèo cô độc, bị xô đẩy. Con người như cùng bơ vơ trước cuộc đời. Điệp từ “không” nhấn mạnh sự trống vắng, thiếu hụt, mất mát. Nó góp phần phủ định hiệu quả. Dòng sông là bức tường ngăn cách, phương tiện đi qua nó là “đò”, “cầu”, là cái khiến con người xóa bớt sự cô đơn. Nhưng ở đầy, đã có sự phủ định tuyệt đối “không cầu”, “không đò”, đó lại là sự khẳng định không có bất kì tín hiệu, mối liên hệ nào để con người gần gũi nhau, giá trị sống của con người đang bị hoàn toàn tiêu diệt. Nếu bị tước đoạt những thứ giúp con người đến với nhau thì không cuộc sống không có giá trị. Phương tiện giúp con người xóa đi sự xa cách mà ở hoàn cảnh này lại hoàn toàn không có. Sự sống của con người dường như bị tiêu diệt, vì sống giữa cuộc đời mà không có sự liên hệ, cảm thông hay chia sẻ. Hình ảnh “bờ xanh’, “bãi vàng” là hai sự vật vốn dĩ đứng cạnh nhau mà lại không có một mối liên hệ ràng buộc nào. “Lặng lẽ” chỉ hoạt động âm thầm, kín đáo, riêng lẻ. Tác giả đã gợi ra bức tranh cảnh vật hoang vắng, thiếu hơi ấm tình người. Khổ thơ thứ 4 gợi ra cả một bầu tâm sự của tác giả “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc Chim nghiêng cánh nhỏ, bóng chiều sa Lòng quê dợn dợn vờn con nước Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” Hình ảnh “mây cao”, “núi bạc” mang hình ảnh kì vĩ, mang tầm vóc lớn. Nhà thơ đã lựa chọn sử dụng những hình ảnh lớn lao, kì vĩ, mượn từ “đùn” của nhà thơ Đường, đó là sự chuyển động từ bên trong đẩy ra bên ngoài từng lớp mây trắng cứ bung nở, tỏa ra thành một núi bạc. “Lớp lớp” là nhiều, chồng lên nhau, không có điểm kết thúc. Hình ảnh mây trắng hết lớp này đến lớp khác như một cây bút bông nở lên trên trời cao. Mây trông như những ngọn núi bạc, mây là núi, núi tựa mây. Hình ảnh “cánh chim” là một công thức ước lệ trong thơ cổ, lấy cánh chim để gọi buổi chiều, nói hộ tâm trạng con người. Hình ảnh “cánh chim” gợi sự sống cho cảnh vật, những cánh chim nhỏ lại nghiêng đi, không chịu được sức nặng của bóng chiều đang xa xuống, tạo sự đối lập giữa cảnh bầu trời cao rộng hùng vĩ ở câu trên và cánh chim nhỏ bé ở câu dưới. Câu thơ cuối cùng “không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” chính là tâm sự nhớ quê hương mà tác giả gửi gắm. Cách thể hiện nỗi nhớ nhà không cần có yếu tố gợi nhớ mà vẫn nhớ vì nỗi nhớ luôn thường trực ở trong tâm hồn thi sĩ. Huy Cận đứng trước dòng sông của đất nước, thể hiện tâm sự của nhà thơ đối với đất nước. Người đọc nhận ra được sự cô độc của tác giả do mất quê hương, đây là một tâm trạng thầm kín, thể hiện tình yêu nước của nhà thơ. “Tràng giang” là một bức tranh thiên nhiên đẹp nhưng buồn, đặc biệt hai khổ thơ cuối thể hiện tình yêu quê hương, đất nước của nhà thơ. Tình yêu ấy mang tâm sự thầm kín của tác giả. Trong đó còn có sự kết hợp giữa hiện đại và cổ điển, xứng đáng là bài thơ hay nhất của tập “Lửa thiêng”. Phân tích 2 khổ cuối bài Tràng Giang- Mẫu 5 Nhận xét về Thơ Mới, trong tuyển tập Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh viết “Đời chúng ta nằm trong vòng chữ Tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngẩn ngơ buồn trở về hồn ta cùng Huy cận. Cả trời thực, trời mộng vẫn neo neo theo hồn ta”. Nỗi buồn đó thể hiện sự sầu muộn với những nỗi sầu nhân thế, tâm sự thầm kín, tình yêu quê hương, đất nước của Huy Cận thể hiện rõ qua hai khổ thơ cuối của bài thơ Tràng Giang Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng Mênh mông không một chuyến đò ngang. Không cầu gợi chút niềm thân mật, Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng. Lớp lớp mây cao đùn núi bạc, Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa. Lòng quê dợn dợn vời con nước, Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà. Khổ thơ thứ ba hiện lên trước mắt người đọc một khung cảnh hắt hiu, dường như thiên nhiên nơi đây không giống với sự trông ngóng của mọi người Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng; Mênh mông không một chuyến đò ngang. Không cầu gợi chút niềm thân mật, Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng. Từng cụm bèo lững lờ trôi vô định trên sông không biết đời mình rồi sẽ đi đâu về đâu, bỗng tới đây ta lại nhớ đến câu ca dao Thân em như thể bèo trôi Sóng dập, gió dồi biết tựa vào đâu? Thân em như thể trái chanh Lắt lẻo trên cành nhiều kẻ ước ao. Hay là hình ảnh cánh bèo lẻ loi, đơn độc, lênh đênh trên mặt nước gợi đến thân phận “cánh bèo mặt nước” Nguyễn Du khiến ta liên tưởng đến sự tan tác, chia lìa, phiêu bạt “Phận bèo bao quản nước sa Lênh đênh đâu nữa cũng là lênh đênh” Nguyễn Du Như vậy, ta có thể thấy được bối cảnh không gian mênh mông sông nước giữa trời bể bao la vào độ chiều tà. Ngắm nhìn những đám bèo trôi lênh đênh vô định, không có phương hướng khiến cho cả thi nhân lẫn người đọc cảm thấy nôn nao, man mác buồn – một nỗi buồn không biết tỏ bày cùng ai, chỉ khi sống trong thơ, chìm đắm trong thế giới ngôn từ mới có thể thốt lên được. Điệp từ “không” nhấn mạnh cho sự vắng vẻ ở nơi đây. Trong câu thơ từ láy “mênh mông” gợi lên sự sầu muộn bao la rộng lớn trước cảnh sông khi chiều tà nhưng không có một con đò nhỏ để qua sông, không hề xuất hiện cảnh “bến My Lăng nằm không thuyền đợi khách” hay bóng dáng nghiêng nghiêng cầu tre “cầu bao nhiêu nhịp thương mình bấy nhiêu”, tất cả đều “lặng lẽ”, chỉ có thiên nhiên “bờ xanh” nối tiếp thiên nhiên bãi vàng. Hai câu cuối của khổ thơ là bức tranh thiên nhiên càng sầu bi hơn được vẽ lên dường như đối lập giữa hai bên bờ sông. Nó giống như là hai thế giới không có bất kỳ liên hệ nào với nhau. Dẫu ở gần mà cũng thành xa xôi không thể với tới giống câu nói “gần ngay trước mắt xa tận chân trời”. Hai bên bờ chạy song song với nhau, cùng“lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”, không một hề có chút thân mật hay giao hòa nào cả. Khung cảnh thiên nhiên lúc bấy giờ giống như chính tâm trạng của thi nhân vậy. Với nghệ thuật đối lập giữa không gian rộng lớn và con người bé nhỏ, không gian càng mênh mông bao nhiêu thì con người càng cảm thấy cô đơn bé nhỏ, lạc lõng giữa dòng đời bấy nhiêu. Nỗi cô đơn cứ thế xếp chồng lên cao, làm cho con người ta càng cảm thấy nhỏ bé giữa thiên nhiên, càng khao khát hơn sự đồng cảm, yêu thương. Từ đây ta có thể cảm nhận được cảm giác bất lực của con người không thể tìm được một người bạn tâm giao, một tri âm tri kỷ của đời mình. Như vậy, “Huy Cận lượm lặt những chút buồn rơi rác để rồi sáng tạo nên những vần thơ ảo não. Người đời sẽ ngạc nhiên vì không ngờ với một ít cát bụi tầm thường thì người lại có thể đúc thành bao châu ngọc. Ai có ngờ những bước chân đã tan trên đường kia còn ghi lại trong văn thơ những dấu tích không bao giờ tan được…”. Quay trở lại với câu thơ cuối cùng của khổ thơ “Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”. Một gam màu lạnh được vẽ nên cùng sự yên lặng khiến cho cảnh càng thêm hiu quạnh, u hoài nay càng thêm ảm đạm hơn… Suy cho cùng, đó là cánh bèo đang lờ lững trôi hay là chính con người đang lạc lõng giữa sự mênh mông của trời đất, của sự ra rời cuộc đời? Là một nhà thơ mới Huy Cận dường như phong cách sáng tác của ông nghiêng khá nhiều về dòng thơ lãng mạn Pháp. Điều này thể hiện khá rõ nét qua khổ thơ cuối của bài thơ. Nội dung của khổ thơ này là miêu tả về tâm trạng của nhân vật trữ tình vào khoảnh khắc hoàng hôn. Nhắc đến hoàng hôn trong thơ cổ là nhắc đến sự gắn liền với tình quê, cố hương, là nỗi nhớ quê hương da diết. Ví dụ như Bà huyện Thanh Quan cũng đã sử dụng hình ảnh hoàng hôn để bày tỏ nỗi nhớ quê hương của mình qua bài thơ “Qua đèo ngang” “Dừng chân đứng lại trời non nước Một mảnh tình riêng ta với ta”. Bà huyện Thanh Quan Hay ở một diễn biến khác, khi đứng ở trên lầu Hoàng Hạc nhìn thấy khói sóng phủ mờ trên dòng sông buổi hoàng hôn mà lòng Thôi Hiệu – nhà thơ lỗi lạc đời Đường phải thổn thức mà thốt nên rằng “Quê hương khuất bóng hoàng hôn, Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?” Lầu Hoàng Hạc – Thôi Hiệu Huy Cận đã lựa chọn thi liệu đầy chất thơ để vẽ lên một tình quê vơi đầy đó là cánh chim chiều hay là lớp lớp núi mây bạc. Dẫu không có khói sóng phủ mờ giống như Thôi Hiệu, không có tiếng chim kêu quốc quốc, “thương nhà mỏi miệng cái gia gia”Qua đèo ngang mà vẫn thương nhớ quê nhà da diết thông qua những câu thơ cuối Lớp lớp mây cao đùn núi bạc Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa Lòng quê dợn dợn vời con nước, Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà. Câu thơ đầy hình tượng và giàu cảm xúc khiến cho ta cảm thấy dường như một bức tranh đang được vẽ nên trước mắt ta. Hồn thơ mang tính chất của thơ Đường như thấm vào từng câu từng chữ. Ai đã từng xa quê, trong khoảnh khắc chiều tà, lúc hoàng hôn buông xuống mới thấy hết cái đẹp nhưng buồn nằm trong những bài thơ nói về tình quê, lòng quê. Đến đây, ngược dòng lịch sử quay trở lại với Truyện Kiều, Nguyễn Du đưa ta phiêu vào cảm xúc của Thúy Kiều khi “Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng” Hay “Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn” Chiều hôm nhớ nhà – Bà huyện Thanh Quan. Như vậy, hoàng hôn trong bất cứ bài thơ nào cũng đều man mác đượm buồn và gắn liền với nỗi nhớ quê nhà da diết. Đến đây, Huy Cận cũng là “một người của đời, một người ở giữa loài người”, một thi sĩ trong phong trào thơ mới như đưa ta bâng khuâng, du nhập hồn mình vào cùng “Tràng giang”, cùng ông lặng lẽ trầm ngâm nhìn theo “vời con nước” để rồi hiện lên nỗi “nhớ nhà”, nhớ quê hương. Tình yêu quê hương trong người thi nhân cháy bỏng và vô cùng da diết. Huy Cận giống như B. Shelly từng nói “thi sĩ là một con chim sơn ca ngồi trong bóng tối hát lên những tiếng êm dịu để làm vui cho sự cô độc của chính mình.” Thơ Huy Cận buồn, nhưng nó như nâng dậy tâm hồn người đọc, nó khơi dậy những gì đẹp đẽ nhất, những gì tiềm ẩn nơi đáy sâu tâm hồn con người để vươn lên tới những cái cao cả hơn. Đọc “Tràng giang” ta cảm nhận sâu hơn về chân lý ấy. Khổ thơ cuối là ở sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa thơ ca truyền thống và thơ ca hiện đại là sự kết hợp những nét cổ điển trong thơ Đường với cái tôi cá nhân xuất hiện trong phong trào thơ mới. Với việc sử dụng nhuần nhuyễn những từ láy và những câu đảo ngữ, Huy Cận đã thành công trong việc miêu tả cảm xúc vũ trụ. Điều này thể hiện qua vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên, sự thơ mộng nhưng không quên thấm đượm nỗi buồn tâm trạng của người thi sĩ. Đó chính là “nỗi buồn sông núi, nỗi buồn về đất nước” Huy Cận. Nỗi buồn đó được khơi nguồn từ con tim ra ngoại cảnh, rồi từ ngoại cảnh trở về tim, lặng lẽ mà sâu nặng, yên tĩnh mà mãnh liệt vô cùng “Một chiếc linh hồn nhỏ Mang mang thiên cổ sầu” Ê chề – Huy Cận Câu đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”. Cảm hứng của lời đề từ này dường như dàn trải trong ba khổ thơ đầu, để rồi cuối cùng lại hội tụ và kết tinh vào trong khổ thơ cuối – khổ thơ có thể được xem là một bài thơ tứ tuyệt hay, bộc lộ chân thực và sâu đậm nhất về tình yêu quê hương của người thi sĩ. Thể thơ thất ngôn trong Tràng giang mang vẻ đẹp của sự cổ kính và trang trọng. Âm điệu đoạn thơ trầm bổng, lúc cao lúc thấp như muôn ngàn sóng điệp điệp gợn buồn trong lòng bạn đọc bấy lâu nay. Cảnh sắc và vẻ đẹp của hoàng hôn đưa ta phiêu vào nỗi nhớ quê hương da diết, mang theo những cung bậc cảm xúc của tâm hồn ta… “Tràng giang” được xem là một trong những bài thơ hay nhất của nhà thơ Huy Cận trong tập “Lửa thiêng”. Đọc Tràng Giang, ta càng hiểu hơn cái tôi “ngẩn ngơ buồn” của tác giả. Thông qua đó ta cũng hiểu được thơ là cây đàn đồng điệu của tâm hồn, là nhịp thở con tim, là diễn tả rất thành công mọi cung bậc cảm xúc của con người, cảnh vật dù chỉ qua vài ý thơ ngắn ngủi. Nghệ thuật ngôn từ trong thơ Huy Cận được nâng lên một tầng cao mới như Xuân Diệu nhận xét “Dường như ở đây nhà thơ đã toát ra một mảng hương sắc sâu xa, cao đẹp nhất của tâm hồn mình”. Phân tích 2 khổ cuối bài Tràng Giang- Mẫu 6 Nhắc đến Huy Cận là nhắc đến hồn thơ u sầu, trong thơ ông luôn chất chứa những nỗi niềm của một kẻ sĩ vương nỗi sầu nhân thế. Một trong những bài thơ tiêu biểu cho phong cách ấy của ông là “Tràng giang”, tác phẩm được viết vào mùa thu năm 1939. Hai khổ thơ cuối bài “Tràng giang” là những khổ hay nhất bài thơ, diễn tả nỗi buồn lữ thứ trước cảnh hoàng hôn rợn ngợp của thi nhân. “Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;” Không còn là không gian rộng lớn, hùng vĩ, mở ra với nhiều chiều kích như khổ thơ trước, với khổ thơ thứ ba, tác giả đưa tầm mắt về hình ảnh bèo dạt trên sông nước. Những cách bèo nổi trôi vô định, không biết đi đâu về đâu. Cánh bèo nhỏ bé giữa dòng mênh mang phải chẳng là tượng trưng cho những kiếp người nhỏ bé, bơ vơ, bất lực giữa dòng đời? Đọc câu thơ, ta như cảm nhận được sự bất lực, nỗi bế tắc của thi nhân. Những cánh bèo hàng nối hàng trôi dạt hay là những kiếp người “hàng nối hàng” đang lạc lõng trước cuộc đời. Họ không biết rồi sẽ đi về đâu, cánh bèo mặc dòng nước cuốn trôi như chính cuộc đời họ đang mặc dòng đời xô đẩy. “Mênh mông không một chuyến đò ngang. Không cầu gợi chút niềm thân mật, Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.” Điệp từ “không” được sử dụng đầy tinh tế đã vẽ ra một không gian vắng lặng, hoang hoải. Dòng sông mênh mông sóng nước, rộng lớn là vậy mà chẳng có lấy một chuyến đò, một bóng hình của ai đó, cũng chẳng có lấy một cây cầu bắc ngang cho dòng người qua lại. Tất cả đều chênh vênh, người và sông như hai thế giới cùng một nỗi niềm tâm sự, khát khao tìm kẻ tâm giao mà chẳng có, càng hi vọng lại càng xa xôi. Thiên nhiên đẹp mà vắng bóng con người, mở ra một miền vắng lặng, lẻ loi. Nỗi cô đơn tự nhiên ngự trị khắp không gian, xâm chiếm lấy tâm hồn thi nhân. “Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng” Trong cái nền của không gian không thanh âm ấy, những gam màu len lỏi xuất hiện “bờ xanh” tiếp “bãi vàng”, nhưng dẫu có màu xanh tươi mát hay sắc vàng ấm áp của bến bờ, cồn bãi thì cũng không khiến cho bức tranh thiên nhiên tươi mới hơn mà trái lại càng tô đậm thêm vẻ u tịch của một miền hoang hoải. Bất chợt ta tự hỏi do cảnh buồn hay lòng thi nhân đang sầu nỗi sầu nhân thế mà lời thơ, tứ thơ chất chứa những mệt nhoài? Bởi “Cảnh nào cảnh chẳng đeo Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” Nguyễn Du Đưa tầm mắt lên, hướng về phía bầu trời cao rộng “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc, Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.” Những hình ảnh cổ điển “mây”, “cánh chim” được tác giả sử dụng kết hợp với các động từ “đùn”, “nghiêng”, “sa” đã diễn tả được cái hùng vĩ và sức sống tràn đầy của thiên nhiên. Những tầng mây “lớp lớp” chất chồng lên nhau tạo nên những dãy núi bạc khổng lồ, lơ lửng trên nền trời xanh ngắt. Một cảnh tượng thật hùng vĩ biết bao! Thiên nhiên lúc này không còn trong trạng thái tĩnh mịch nữa mà nét động dần thay thế. Mây đùn núi bạc trong ánh chiều, chim nghiêng cánh nhỏ mơ màng trong bóng hoàng hôn, tất cả tạo nên một không gian đẹp đẽ, rực rỡ và sống động. Tuy nhiên, trong khung cảnh ấy, ta vẫn thấy nét buồn, cô đơn của tâm hồn thi nhân khi bắt gặp hình ảnh “chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”. Cánh chim nhỏ bé, mỏng manh bay giữa mây cao, núi bạc, cô đơn giữa đất trời mênh mông, hùng vĩ tựa như hình ảnh thi nhân đang bơ vơ, chán ngán giữa dòng đời. Bởi thế mà nỗi buồn cứ thế trào dâng, miên man bất tận, thấm đượm trong cảnh, chất chứa trong tình. Có thể nói, tình quê là một tình cảm đáng trân trọng của các thi nhân dành cho quê hương, đất nước. Thôi Hiệu từng nhìn khói sóng trên sông mà nhớ nhà “Nhật mộ hương quan hà xứ thị Yên ba giang thượng sử nhân sầu.” Hay Lí Bạch từng nhìn trăng mà nhớ quê hương da diết “Cử đầu vọng minh nguyệt Đê đầu tư cố hương.” Người ta xa quê thì nhớ quê, nhưng với Huy Cận thì khác, tác giả đang đứng trên quê hương mà lại nhớ quê hương da diết “Lòng quê dợn dợn vời con nước, Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.” Từ láy “dợn dợn” gợi tả nét chuyển động diễn ra liên tục trong tâm khảm nhà thơ, một nỗi nhớ luôn thường trực khôn nguôi, đầy sâu sắc và ám ảnh. Dường như, không giây phút nào là thi nhân không nhớ đến quê hương, đất nước mình, đặc biệt là trong cảnh tổ quốc đang bị xâm lăng, giày xéo bởi quân thù. Có thể nói, hai khổ cuối bài thơ đã vẽ nên một bức tranh đẹp nhưng buồn sầu. Ẩn sâu trong từng con chữ là cái tôi thi sĩ cô đơn song lại chất chứa tình cảm sâu nặng, tha thiết với quê hương, đất nước. Phân tích 2 khổ cuối bài Tràng Giang- Mẫu 7 Huy Cận là nhà thơ nổi bật của phong trào thơ mới và là một trong những cây đại thụ của thơ ca Việt Nam hiện đại. Phân tích hai khổ thơ cuối bài tràng giang ta sẽ thấy được cái đặc trưng đặc biệt của thơ Huy Cận. Ông thường được nhắc nhớ bởi hồn thơ của những nỗi sầu vạn cổ hay nhà thơ của những nỗi niềm khắc khoải không gian. Bài thơ “Tràng giang” là một trong những tác phẩm xuất sắc của Huy Cận, được in trong tập “Lửa thiêng”, tập thơ đầu tay nhưng đã thể hiện được cái “chín” trong sáng tác của ông. Bài thơ gợi mở không gian sông Hồng, đoạn bến Chèm vào mùa nước nổi. Thời điểm viết bài thơ Huy Cận đang là sinh viên của trường Cao đẳng Canh nông. Đứng trước cảnh sông nước mênh mông, ông thể hiện tâm trạng cô đơn, u sầu và sự lạc loài của số kiếp con người trước vũ trụ bao la, vô thủy, vô chung. Điều này người đọc có thể cảm nhận rõ nhất ở hai khổ cuối bài thơ. “Bèo giạt về đâu, hàng nối hàng; Mênh mông không một chuyến đò ngang. Không cầu gợi chút niềm thân mật, Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng. Lớp lớp mây cao đùn núi bạc, Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa. Lòng quê dợn dợn vời con nước, Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.” “Tràng giang” là một từ Hán Việt mang sắc thái cổ kính, trang trọng và gợi cho ta nhớ đến dòng sông li biệt từng gặp trong thơ Lí Bạch. Bên cạnh đó, vần “ang” trong hai từ khi đọc lên như vang vọng và gợi không gian mênh mông xa vắng, cái trải dài của bãi bờ sông nước. Vì vậy, ngay từ nhan đề, Huy Cận đã mở ra một cửa ngỏ nhìn vào cái vô biên. Hai chữ “Trường giang” ngắn gọn nhưng đã khái quát và phần nào đã làm rõ tư tưởng, thông điệp của nhà thơ muốn gửi gắm trong bài thơ. “Bông khuâng trời rộng nhớ sông dài”. Chỉ một câu thơ nhưng Huy Cận đã gói trọn cảm hứng chủ đạo của cả tác phẩm. Đó là nỗi bâng khuâng, lòng thương nhớ của một con người bé nhỏ trước cảnh trời rộng sông dài. Đọc toàn bài thơ, ta thấy ở khổ thứ nhất nhà thơ hướng cái nhìn cảnh về những con sóng lăn tăn mặt sông, dừng mắt trên chiếc thuyền nhỏ lẻ loi, rồi một cảnh củi khô lạc loài giữa bốn bề sông nước; ở khổ thứ hai, Huy Cận đưa mắt ra xa hơn, rộng hơn với cái nhìn toàn cảnh mênh mông. Và đến khổ thứ ba, Huy Cận lại nhìn về dòng sông, như đang đưa mắt tìm kiếm những điều thân thuộc, chút hơi ấm cho tâm hồn đang cô đơn, lạnh giá. Nhưng khi phân tích hai khổ thơ cuối bài tràng giang ta thấy thiên nhiên dường như chỉ hờ hững trước những mong mỏi ấy của nhà thơ, bởi xung quanh bốn bề chỉ là vẻ đìu hiu, quạnh quẽ “Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng, Mênh mông không một chuyến đò ngang. Không cầu gợi chút niềm thân mật, Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”. Thay vì những thuyền, những cành củi khô hiện lên trong cái nhìn cận cảnh dòng sông ở khổ đầu; ở khổ thứ ba này hiện lên hình ảnh không kém phần buồn bã những cánh bèo trôi dạt lênh đênh. Dòng sông vốn đã “buồn điệp điệp”, sự xuất hiện của những cánh bèo trôi nổi càng làm cho con nước thêm hiu quạnh. Những cánh bèo dạt ấy là sự nối tiếp của hình ảnh “con thuyền xuôi mái” và “củi một cành khô” xuất hiện ở khổ thơ đầu. Và cũng từ đây, từ hình ảnh cánh bèo trôi dạt, cảm giác về kiếp người phù du vô định cũng được gợi ra. Phân tích hai khổ thơ cuối bài tràng giang ta thấy, câu thơ “Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng” được ngắt nhịp 2/2/1/2. Cách ngắt nhịp này thể hiện được sự dao động của sóng nước và cũng khắc họa trạng thái dập dềnh của những cánh bèo đang rôi dạt trên sông. Còn với hai chữ “về đâu” Huy Cận muốn nói lên sự mất phương hướng, sự hoang mang và những dự cảm bất an về số phận con người trong thế giới không có sự gắn kết, sẻ chia. Giữa cuộc đời trăm ngả, bộn bề sống nhưng cô đơn, con người không biết phải đi về đâu. Huy Cận không biết phải hỏi ai nên tự hỏi mình, nhưng không tìm thấy một lời giải đáp. Đứng trước cảnh trời nước bao lao, nhà thơ mang tâm tình hướng đến sự giao cảm với con người, mong rằng sẽ bớt cô đơn, bớt quạnh hiu. Nhưng làm sao có thể thấy được an ủi, khi “Mênh mông không một chuyến đò ngang/ Không cầu gợi chút niềm thân mật. Cái vẻ trống trải cô đơn của nhà thơ được tô đậm bổ hai từ phủ định “không” liên tiếp. Thực tế cây cầu hay con đò là những cảnh vật ta vẫn thường bắt gặp ở những niềm sông nước, bởi đó là phương tiện đi lại, phương tiện liên hệ, gặp giữa của con người. Nhưng ở đây nhà thơ lại không hề thấy xuất hiện. Không có cây cầu nối hai bờ sông nước để gần gũi, không có một chuyến đò để đón đưa khách qua sông. Mọi thứ chỉ là vẻ hoang vắng, là màu vàng màu xanh của bãi bờ tiếp nối nhau “Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng” “Lặng lẽ” là từ láy gợi tả vẻ im lặng của không gian, cùng với hình ảnh “bờ xanh tiếp bãi” không gian đôi bờ tràng giang càng thêm hoang vắng, tiêu điều. Đọc câu thơ, người đọc có thể cảm nhận rõ dòng chảy lững lờ của con sông qua khúc này tới quãng khác, nhưng luôn giữ cái vẻ âm thầm, vắng lặng. Dòng chảy của sông Hồng lúc này thật khác với vẻ tươi vui, xanh biếc của sông Hương chảy về thành phố Huế trong tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Như vậy, khi phân tích hai khổ thơ cuối bài tràng giang mà trước nhất ở khổ thứ ba, ta thấy hiện ra một thế giới mang vẻ hững hờ, rời rạc. Và ở thế này, con người càng thêm thấm thía nỗi cô đơn hoang vắng tột cùng. Cái cô đơn âu sầu ấy như thấm vào từng câu chữ, từng hình ảnh trong khổ thơ. Nó phản chiếu nỗi cô đơn đã trở thành một căn bệnh của con người trong xã hội ở thế kỉ XX. Căn bệnh đã xuất hiện nhiều trong văn học Phương Tây Mỗi người đứng cô đơn trên trái đất Tim xuyên qua một tia nắng mặt trời Và chia li Chiều đã tắt Kết thúc bài thơ, Huy Cận vẽ nên cảnh hoàng hôn về trên vùng sông nước. Nỗi cô đơn vẫn còn tiếp nối và trải ra cùng những con sóng, lênh đênh theo những con thuyền, theo cành củi lạc loài, theo những cánh bèo trôi nổi và cho đến cuối cùng, lại kết thụ ở đoạn thơ cuối “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc, Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa Lòng quê dợn dợn vời con nước, Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” Trong khổ thơ cuối bài “Tràng giang”, ta thấy Huy Cận chia đôi khổ thơ làm hai phần rõ rệt. Hai câu thơ trên gợi cảnh trời rộng bao la, hai câu cuối thì miêu tả cảnh sông dài. Mà song hành cùng với trời rộng, sông dài là nỗi cô đơn u sầu, là niềm nhớ, nỗi hoài hương da diết của thi nhân, đặc biệt là vào lúc hoàng hôn đang buông khép lại một ngày. Hai khổ thơ cuối bài tràng giang ta thấy Huy Cận thật tài hoa khi vẽ nên một nét chấm phá đậm dấu ấn Đường thi, phác họa cảnh hoàng hôn vùng sông nước “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc, Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa” Những lớp mây nối tiếp nhau, đùn dồn tụ, ngưng kết thành những dãy núi trùng điệp. Còn hoàng hôn như dát bạc lên những dãy núi, khiến chúng lấp lánh sáng ngời. Đọc câu thơ ta có thể hình dung ra khung cảnh thiên nhiên ấy thật kì vĩ, tráng lệ làm sao và gợi nhắc đến câu thơ Đường “Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm Mặt đất mây đùn cửa ải xa”. Giữa vùng trời mênh mông, người thi sĩ vẽ thêm một cánh chinh đơn côi, bé bỏng. Cánh chim nhở như đang chở nặng bóng chiều tà đi về phía ánh dương rồi mất hút. Ta không khỏi cảm thấy cánh chim ấy cũng đang mang nỗi sầu vũ trụ, mà nỗi sầu ấy nặng quá, chúng phải nghiêng đôi cánh nhỏ. Chính sự kết hợp giữa các hình ảnh mây đùn đùn, trời mênh mông và cánh chim bé nhỏ đang mang đến dư vị cổ điển cho tác phẩm của Huy Cận. Qua đó, độc giả cũng thấy rõ niềm khắc khoải không gian của Huy Cận. Một mình đứng trước vũ trụ bao la, đối diện với nỗi cô đơn, nhà thơ càng thấm thía cái vô tận, vĩnh hàng của không gian, thời gian và đồng thời là cái ngắn ngủi, hữu hạn của đời người. Ở hai câu thơ cuối, nỗi cô đơn u hoài của Huy Cận còn tăng gấp bội khi ông dõi theo những con sóng đang gợn trôi trên dòng sông Lòng quê dợn dợn vời con nước, Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà. Lúc này điểm nhìn của nhà thơ đã dịch chuyển từ cao xuống thấp, từ trời mây núi, cánh chim giữa không trung rồi dừng lại trước mặt nước dập dềnh sóng. Từ láy “dờn dợn” mang tính gợi hình, vẽ ra những con sóng đang nhấp nhô trên mặt nước và khiến người nhìn rợn ngợp bởi những lớp sóng cứ dồn gối lên nhau. Còn nhịp 4/3 của dòng thơ lại gợi trạng thái gặp gỡ của những con sóng. Huy Cận đứng và phóng tầm mắt dõi theo những con sóng cứ dập dềnh triền miên, nỗi hoài nhớ quê hương cuối cùng đã dâng lên, Trong thơ cổ điển,hình ảnh khói sóng trên sông đã trở thành nguyên cớ, thành cái dễ gợi nhắc nỗi niềm hoài hương của người thi sĩ. Còn ở đây, Huy Cận đã không còn bị tác động bởi yếu tố ngoại cảnh, là khói hoàng hôn để nói về nỗi niềm da diết nhớ quê hương. Như vậy, hai khổ thơ cuối bài tràng giang ta thấy, Huy Cận đã không lặp lại người xưa ở cái nguyên cớ nhớ quê nhưng vẫn khiến người đọc thấy bâng khuâng, nao nao thương nhớ. Nhưng hơn hết, nỗi lòng đối với quê hương không chỉ là nỗi nhớ nhà mà sâu sắc hơn, là nỗi buồn. Nỗi buồn của cả một thế hệ, một lớp người bởi cảnh nước mất nhà tan. Vì vậy, đằng sau nỗi nhớ quê nhà da diết ấy còn ẩn chứa tình yêu đất nước tầm kín mà sâu sắc của Huy Cận. Có thể nói, hai khổ thơ cuối bài “Tràng giang” là nơi hội tụ những đặc sắc nghệ thuật, nội dung sâu sắc của cả bài thơ. Ở đây ta thấy được phong vị cổ điển kết hợp hài hòa với tinh thần sáng tác hiện đại, và sự hài hòa giữa cảm xúc cá nhân và suy tư thời đại. Chính những sự cộng hưởng này đã khiến tâm trạng, cảm xúc, nỗi u sầu cô đơn và nỗi hoài vọng quê hương của Huy Cận càng thêm da diết, triền miên. Phân tích 2 khổ cuối bài Tràng Giang- Mẫu 8 Con người trước không gian rộng lớn bao la luôn có cảm giác nhỏ bé, rợn ngợp. Đứng trước không gian ấy, con người thường có nhiều chiêm nghiệm suy ngẫm về cuộc đời để rồi nhận ra sao ta cô đơn quá. Đó cũng chính là nỗi niềm của Huy Cận khi đứng trước không gian trùng điệp rộng lớn của Tràng giang. Sự cô đơn nhỏ bé ấy được thể hiện rõ trong hai khổ cuối của bài thơ. Bài thơ Tràng giang được viết vào mùa thu năm 1939 khi tác giả đang đứng ở bờ Nam bến Chèm sông Hồng. Nhìn cảnh sông nước rộng lớn và suy nghĩ về kiếp người chính là nội dung của bài thơ. Đặc biệt ở hai khổ cuối dường như không chỉ đơn thuần tả cảnh mà trong đó ta còn bắt gặp tâm trạng của thi nhân. Tràng giang không những là tác phẩm điển hình cho hồn thơ Huy Cận mà còn tiêu biểu cho thơ ca lãng mạn đặc biệt là phong trào Thơ Mới trong giai đoạn 1932-1945. Cảnh chiều trong Tràng giang có chiều kích của không gian cao rộng, có sông nước mênh mang và tất cả đều tiêu sơ, hoang vắng, chất chứa nỗi sầu nhân tình thế thái… Nếu ở hai khổ thơ đầu là khung cảnh thiên nhiên sông nước rộng lớn ngợp trời “Nắng xuống trời lên sâu chót vót Sông dài trời rộng bến cô liêu” Thì đến khổ thơ thứ hai khung cảnh và điểm nhìn đã được thu hẹp hơn thể hiện nỗi sầu buồn trong tâm hồn của thi nhân “Bèo dạt về đâu hàng nối hàng; Mênh mông không một chuyến đò ngang Không cầu gợi chút niềm thân mật, Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.” Không còn là trời rộng là sông lớn, từ cái nhìn bao quát đã trở thành cái nhìn cận cảnh. Hình ảnh bèo quen thuộc xuất hiện. những cánh bèo nhỏ bé thường gọi sự nhỏ bé của kiếp người. Cánh bèo mong manh như chính kiếp người. Nếu cánh bèo không thể tự di chuyển mà bị dòng nước xô đẩy thì con người cũng thế. So với cuộc đời rộng lớn mênh mông thì con người chỉ là những hạt cát nhỏ bé trôi nổi giữa dòng đời. Trong câu thơ dường như thoáng chút bất lực bế tắc. Không chỉ một cánh bèo, một kiếp người mà “hàng nối hàng” nhiều kiếp người cũng đang lạc lõng bơ vơ giữa cuộc đời. Dường như không chỉ có Huy Cận cảm thấy cô đơn thấy lạc lõng ngay chính trên đất nước của mình mà là cả một tầng lớp thanh niên sinh ra trong thời loạn lạc của đất nước. Họ đều như những cánh bèo kia lênh đênh không biết sẽ đi về đâu chỉ đành phó mặc cho dòng đời xô đẩy “Bâng khuâng đứng giữa đôi dòng nước Biết chọn một dòng hay để nước trôi.” Huy Cận cũng thế nên ông thấu hiểu cho tình cảnh của những người thanh niên giống ông. Phân tích 2 khổ thơ cuối bài Tràng giang sẽ thấy chỉ một từ láy “mênh mông” nhưng cũng đã đủ diễn tả không gian rộng lớn của đất trời. Không gian như được mở rộng ra vô biên. Và trong không gian rộng lớn ấy chỉ có cánh bèo nhỏ bé lênh đênh, thật cô đơn và tuyệt vọng. Sau khi vẽ ra không gian rộng lớn ấy, nhà thơ đã đi đến một điệp khúc “không” độc đáo. Điệp từ “không” được lặp lại hai lần trong lời thơ – “không một chuyến đò ngang”, “không cầu gợi chút niềm thân mật”. Không có gì cả, không có người cũng chẳng có sự vật. Nỗi cô đơn cứ thế mà ngự trị khắp nơi len lỏi vào không gian xen lẫn vào tâm hồn nhà thơ. Đó cũng chính là điều đã làm nên cái điệu buồn miên man này. Nhưng dường như không chỉ có cảnh vật cô đơn mà con người dường như cũng từ chối cả sự giao tiếp với thế giới xung quanh. Chính con người dường như cũng đang thu mình lại giữa sự cô đơn, khép lại tấm lòng của mình và từ chối giao tiếp với thế giới. Bến và đò vốn muôn đời nối liền nhau, nhắc đến bến là phải nghĩ đến đò nhưng trong câu thơ thì bến trống rỗng mà thuyền cũng chẳng đến. Bến đó nhưng nào có đợi mong thuyền hay một chuyến đò nào sang sông. Tất cả mọi sự vật đều từ chối sự kết nối. Hai khổ thơ cuối bài Tràng giang ta thấy từ láy “lặng lẽ” đã nhấn mạnh thêm sự trống vắng tĩnh lặng đến đáng sợ nơi đây. Trong im vắng cũng chính là lúc người ta sống thật với lòng mình sống thật với những cảm xúc của mình. Nhưng trong im vắng người ta lại cảm thấy cô đơn nhiều hơn, để rồi cần tìm một nơi để nương tựa sẻ chia. “Bờ xanh” tiếp “bãi vàng”, những gam màu đã bắt đầu xuất hiện. Nhưng có màu xanh tươi mát hay màu vàng ấm áp cũng không khiến cho bức tranh này tươi mới hơn mà ngược lại nó càng trở nên âm u tịch mịch. Những gam màu ấy chỉ càng khiến cho cảnh trở nên hiu hắt đìu hiu. Cảnh buồn thấm vào cảnh vào người hay chính nỗi buồn sự cô đơn của con người khiến cảnh vật cũng u ám như câu thơ của Nguyễn Du từng viết “Cảnh nào cảnh chẳng đeo Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” Qua đây ta thấy con người đang cô đơn lạc lõng trong không gian rộng lớn, trong thời gian mênh mông vô thủy vô chung của đất trời… Thật không sai khi nói rằng thơ của Huy Cận có sự hòa quyện chặt chẽ giữa chất cổ điển và chất hiện tại. Điều ấy được thể hiện rõ ở khổ thơ cuối “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa Lòng quê dợn dợn vời con nước, Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.” Phân tích 2 khổ thơ cuối bài Tràng giang, ta thấy hình ảnh những đám mây chất chồng lên nhau được diễn tả thật hùng vĩ qua dòng phác họa “lớp lớp mây cao đùn núi bạc”. Từ láy “lớp lớp” diễn tả khối lượng lớn, và dường như còn đang tiếp diễn. Sức sống ấy cứ dâng lên không sao kìm nén được. Sức sống ấy được diễn tả cô đọng qua từ “đùn”. Trong thơ văn, không ít nhà thơ đã dùng từ “đùn” để thể hiện sức sống của cảnh vật như Đỗ Phủ từng viết “Giang giang ba lãng kiêm thiên dũng Tái thượng phong vân tiếp địa âm.’ Thu hứng Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳm Mặt đất mây đùn cửa ải xa. Hay Nguyễn Trãi cũng từng viết “Rồi hóng mát thuở ngày trường Hòe lục đùn đùn tán rợp giương” Cảnh ngày hè Huy Cận cũng sử dụng từ “đùn” ấy để diễn tả sự chất đống, chất dồn của đám mây. Những đám mây xếp chồng lên nhau tạo cho ta cảm giác như những núi bạc đã lơ lửng trên không. Hình ảnh hiện ra thật hùng vĩ làm sao. Trong bức tranh cổ thi ấy, nét động bắt đầu xuất hiện. Đầu tiên chính là “chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”. Hình ảnh con chim cuối ngày thường gợi ra một cảm giác chán chường mệt mỏi như trong câu thơ của Bà huyện Thanh Quan. “Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi Dặm liễu sương sa khách bước dồn”. Hay trong câu thơ của Hồ Chí Minh “Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ Cô vân mạn mạn độ thiên không”. Cánh chim của Huy Cận cũng thế chở đầy mệt mỏi lo âu và cả sự cô đơn rợn ngợp. Chú chim nhỏ bé cô đơn giữa bầu trời rộng lớn. Cánh chim nếu so với bầu trời thật quá nhỏ bé cũng như con người với dòng đời này. Ta nhận ra cuộc đời này nếu so với dòng chảy vô tận của thời gian thì chẳng khác nào một hạt cát giữa sa mạc, một giọt nước giữa đại dương. Nếu ở những dòng thời trên thời gian không xuất hiện cụ thể thì ở dòng thơ này thời gian đã được xác định “bóng chiều sa”. Giữa hai sự vật “chim nghiêng cánh nhỏ” và “bóng chiều sa” dường như không có sự kết nối, cho người đọc tự liên tưởng. Chính vì vậy ta có cảm tưởng dường như cánh chim đang chở nặng bóng chiều hay chính cánh chim mỏi mệt đã kéo bóng chiều xuống. Nhưng dù hiểu theo cách nào ta vẫn thấy hình ảnh ấy hiện ra thật tráng lệ. Nỗi buồn của người lữ thứ trước cảnh hoàng hôn rợn ngợp. Từ điểm nhìn trên cao, Huy Cận đã di chuyển điểm nhìn xuống mặt nước quen thuộc “Lòng quê dợn dợn vời con nước Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.” Lòng quê chính là tình cảm dành cho quê hương đất nước. Hóa ra nhà thơ không chỉ quan tâm đến bản thân mà ngầm trong đó là một tình yêu nước thầm kín. Từ láy dợn dợn gọi tả sự chuyển động nhỏ nhưng diễn ra liên tục không ngừng như một sự ám ảnh. Tình yêu đối với quê hương cũng thế có đôi khi mạnh mẽ có khi khi lại ẩn khuất trong cuộc sống nhưng nó vẫn tồn tại mãi ở đó không khác đi. Không nhắc về nói nhưng mỗi lần nhớ đến vẫn cảm thấy đau nói. Dùng sự vật biểu trưng để nhớ đến quê hương không phải là điều xa lạ. Như Lí Bạch từng nhìn trăng mà nhớ quê hương “Cử đầu vọng minh nguyệt Đê đầu tư cố hương” Hay Thôi Hiệu cũng từng “Nhật mộ hương quan hà xứ thị Yên ba giang thượng sử nhân sầu.” Nhưng nếu các thi nhân xưa cần vật để gợi nhớ quê hương thì Huy Cận đang ở trên quê hương mà vẫn nhớ về quê hương. Tại sao một con người đang đứng trên đất nước mình mà lại đi nhớ về quê hương? Bởi lẽ quê hương ta đang bị quân giặc giày xéo, đây không phải là quê hương đúng nghĩa, nên dù đang đứng ngay trên quê hương mình nhưng ông vẫn thấy cô đơn, thấy bơ vơ như những con người xa quê… Phân tích 2 khổ thơ cuối bài Tràng giang nói riêng cũng như toàn bộ tác phẩm nói chung sẽ thấy bài thơ chính là một nỗi buồn cô đơn dài vô tận. Nỗi buồn ấy không chỉ đến từ vạn vật mà còn đến từ chính tâm trạng thi nhân. Đó là tâm trạng của một người không có được tự do trên chính đất nước mình. Giọng thơ đượm buồn kết hợp với những hình ảnh rộng lớn của không gian đã cho thấy được sự cô đơn nhỏ bé của kiếp người trước sự trôi nổi của dòng đời. Phân tích bài thơ Tràng giang nói chung cũng như hai khổ thơ cuối nói riêng sẽ thấy tác phẩm là đại diện tiêu biểu cho phong cách sáng tác của Huy Cận. Một cái buồn ảo não, một nỗi sầu nhân thế ngấm xuyên vào cảnh vật và vào cả lòng người. Bởi thế mà nhà thơ Lê Duy đã từng viết “Là Tràng Giang khổ nào cũng dập dềnh sóng nước, Là tâm trạng, khổ nào cũng lặng lẽ u buồn…” Phân tích 2 khổ cuối bài Tràng Giang- Mẫu 9 Thơ là cây đàn muôn điệu của tâm hồn, của nhịp thở con tim, thơ diễn tả rất thành công mọi cung bậc cảm xúc của con người, niềm vui, nỗi buồn hay cả sự cô đơn tuyệt vọng. Mang trong mình sứ mệnh cao cả của một nhà thơ khi sáng tạo nghệ thuật cùng với nỗi buồn thế sự sâu sắc, Huy Cận đã xây dựng được một phong cách hoàn toàn mới mẻ, khác với những nhà thơ cùng thời. Tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của ông có thể kể đến Tràng giang trong tập Lửa thiêng. Bài thơ được gợi cảm xúc từ một buổi chiều thu năm 1939 khi tác giả đứng ở bờ Nam Bến Chèm. Trước cảnh sông Hồng mênh mang sóng nước, những cảm xúc thời đại đã dồn về lúc thi sĩ băn khoăn, suy nghĩ về sự biến đổi của thế sự với cảm xúc dạt dào khi thấy cái tôi nhỏ bé trước vũ trụ bao la. Đặc biệt qua hai khổ thơ cuối của đoạn thơ là một nỗi buồn tràng giang như một sự ám ảnh lan tỏa khắp không gian vũ trụ, hoàn toàn vắng bóng giai nhân mà chỉ đơn độc một nỗi niềm của một người “sống trên quê hương nhưng luôn cảm thấy thiếu quê hương” “Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng; Mênh mông không một chuyến đò ngang. Không cầu gợi chút niềm thân mật, Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng. Lớp lớp mây cao đùn núi bạc, Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa. Lòng quê dợn dợn vời con nước, Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.” Tính chất lãng mạn của bài thơ trước hết là Huy Cận đã phủ lên cảnh vật, không gian những cảm xúc, những nỗi niềm tâm trạng của mình. Đó là nỗi buồn, sự xúc động mạnh mẽ trước cảnh sông nước, cảnh bèo dạt gợi nỗi sầu muôn trùng “Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;” Ta chợt bắt gặp sự tương đồng giữa “bèo dạt về đâu” với “bèo dạt mây trôi” trong dân ca quan họ từng gợi lên trong lòng nhiều cảm xúc mơ hồ. Hình ảnh ẩn dụ cánh bèo bao giờ cũng gợi lên sự vô định, xa xăm, lênh đênh. Không chỉ dừng lại ở đó, câu hỏi tu từ cùng điệp từ “hàng” như trải rộng nỗi buồn trên sóng nước tràng giang. Liệu những cánh bèo đó sẽ trôi dạt về phương trời nào, hay cứ mãi bấp bênh, trôi nổi như số phận đại đa số người dân trong hoàn cảnh đất nước lầm than? Sống trong thời khói lửa còn đốt cháy quê hương, thi nhân không khỏi xót xa trước cuộc đời đầy biến động, đổi thay, biến con người ta thành như những cánh bèo trôi dạt vô hướng kia. Buồn rồi lại buồn hơn, muốn tìm một nơi bấu víu, một chút hơi ấm của sự sống nhưng cái nhà thơ nhận được chỉ là sự hiện diện của những cái không có “Mênh mông không một chuyến đò ngang. Không cầu gợi chút niềm thân mật, Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.” Chiếc cầu, con đò vốn là những thứ nối liền đôi bờ, là sự giao nối giữa con người với nhịp sống, thường gợi sự gần gũi và gợi nhớ quê hương. Nhưng buồn thay, ở đây lại không có một chiếc cầu cũng chẳng có con đò nào lại qua. Điệp từ “không” hai lần như nhấn mạnh sự cô đơn, trống trải có thật trong lòng người. Hai bờ sông mà như hai thế giới, không một chút liên hệ, không một chút giao hòa. Hai bên bờ chạy song song, cùng “lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”, không một chút thân mật, chỉ có bờ tiếp bờ, bãi tiếp bãi. Từ láy “lặng lẽ” được đưa lên đầu dòng thơ cùng âm điệu trầm buồn càng tô đậm cái cô tịch, vắng lặng. Thi sĩ đã sử dụng thủ pháp nghệ thuật cổ điển quen thuộc lấy không để nói cái có, càng nhấn mạnh nhiều cái không càng gợi ra nhiều cái có, cảnh vật vắng vẻ không có gì lại gợi ra nhiều nỗi buồn chất chồng trong tâm trí. Đưa tầm nhìn lên trời cao thầm mong sẽ tìm được chút niềm vui nhưng lại càng khiến lòng buồn hơn “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc, Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.” Thiên nhiên, cảnh vật, tạo vật qua tâm hồn Huy Cận tuy trầm buồn nhưng lại bộc lộ một vẻ đẹp kì vĩ, nên thơ. Mây trắng hết lớp này đến lớp khác như những búp bông trắng khổng lồ cứ liên tiếp nở ra, ánh trời chiều chiếu vào trông như quả núi dát bạc trong nền trời trong xanh khiến cho ánh chiều trước khi vụt tắt ánh lên vẻ đẹp. Câu thơ dựng lên được một hình ảnh rất tạo hình như một bức tranh sơn mài, đằng sau bức tranh là nỗi lòng thi nhân. Từ láy “lớp lớp” diễn tả nhiều lớp kế tiếp nhau, lớp nọ liền lớp kia đều đặn không dứt. “Đùn” diễn tả những đám mây và cũng là nỗi sầu tự mở ra, liên tiếp như có một sức đẩy từ bên trong. Đúng là “Sầu đong càng lắc càng đầy”. Câu thơ Huy Cận làm ta liên tưởng đến câu thơ dịch trong bai “Thu hứng” nổi tiếng của Đỗ Phủ “Mặt đất mây đùn cửa ải xa.” Bài thơ Tràng giang gợi nổi buồn man man thiên cổ của Huy Cận. Tất cả cảnh vật liên quan đến con người đều không hiện hữu, qua đó thấy được nổi cô đơn của Huy Cận truớc cảnh thiên nhiên rộng lớn, trong đó thấm đậm tình người, tình đời, tình yêu nước tha thiết. Phân tích 2 khổ cuối bài Tràng Giang- Mẫu 10 Trong số các nhà thơ mới trước Cách mạng, Huy Cận là một nhà thơ có chất thơ ảo não nhất. Thơ ông luôn chất chứa một nỗi sầu nhân thế. “Tràng Giang” là một bài thơ gắn liền với tên tuổi của Huy Cận với những nỗi niềm yêu nước thiết tha. Đặc biệt, nỗi niềm thương nhớ ấy càng được thấy rõ trong phần phân tích hai khổ thơ cuối bài Tràng giang dưới đây Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng; Mênh mông không một chuyến đò ngang. Không cầu gợi chút niềm thân mật, Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng. Lớp lớp mây cao đùn núi bạc, Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa. Lòng quê dợn dợn vời con nước, Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà. Trước mắt người đọc hiện lên một khung cảnh hắt hiu Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng; Mênh mông không một chuyến đò ngang. Không cầu gợi chút niềm thân mật, Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng. Từng đám bèo cứ lặng lẽ nối tiếp nhau trôi theo dòng nước mà không biết trôi về đâu, tựa như dòng đời bơ vơ, vô định, cảm thấy mình bất lực và nhỏ bé. Ở đây có sự đối lập giữa những thứ đang có và những thứ không có. Chỉ có dòng nước mênh mông với những cánh bèo nối tiếp nhau trôi trong vô định, không có lấy một cây cầu dù chênh vênh, không có lấy một con đò dù nhỏ bé. Hai bên bờ sông mà như hai thế giới, không có một chút liên hệ nào, dù gần mà cũng thành xa xôi không thể với tới. Hai bên bờ chạy song song, cùng “lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”, ko chút thân mật, không chút giao hòa nào cả. Khung cảnh thiên nhiên ấy, cũng như tâm trạng của nhà thơ vậy. Giữa trời đất bao la nhưng không tìm được những tâm hồn đồng điệu với mình, không ai có thể hiểu mình. Nỗi cô đơn cứ thế chồng chất chất chồng, làm cho con người ta càng cảm thấy nhỏ bé giữa thiên nhiên, càng khao khát hơn sự đồng cảm, yêu thương. Không nhìn dòng nước buồn hiu hắt nữa, nhà thơ dắt chúng ta nhìn đến cao hơn Lớp lớp mây cao đùn núi bạc, Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa. Trong thơ của Huy Cận cũng có cánh chim và đám mây như trong một số bài thơ cổ nói về buổi chiều, tuy nhiên, hai hình ảnh này không có tác dụng hô ứng cho nhau như trong thơ cổ, mà chúng còn có ý nghĩa trái ngược nhau. Trong buổi chiều muộn, nhưng từng lớp, từng lớp mây trên cao kia vẫn chất chồng lên nhau, tạo thành những núi bạc, nổi bật trên nền trời xanh trong. Đây là một cảnh vật hùng vĩ biết bao! Đó không phải đám mây cô đơn lững lờ giữa tầng không khi chiều về như trong thơ của Hồ Chí Minh. Mây ở đây chất chồng, ánh lên trong nắng chiều, làm cho cả bầu trời trở nên đẹp đẽ và rực rỡ. Giữa khung cảnh ấy, một cánh chim nhỏ nhoi xuất hiện. Cánh chim bay giữa những lớp mây cao đẹp đẽ, hùng vĩ như càng làm nổi bật lên cái nhỏ bé của nó. Nó đơn côi giữa trời đất bao la, tựa như tâm hồn nhà thơ bơ vơ giữa đất trời này. Đặt cánh chim và những núi mây bạc ở thế đối lập, đã tô đậm thêm nỗi buồn trong lòng nhà thơ. Nỗi buồn như thấm đượm, lan tỏa trong khắp cả không gian Lòng quê dợn dợn vời con nước, Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà. Tầm mắt trở lại trên dòng nước. Từng đợt sóng nước dập dềnh, nhẹ nhàng uốn lượn nhưng cũng tồn tại rất lâu, lan tỏa rất xa. Đó là hình ảnh miêu tả, nhưng cũng chính là tâm trạng của tác giả – một cảm giác cô đơn, Người xưa nhìn khói sóng trên dòng sông khi chiều tà mà cảm thấy nhớ nhà. Còn Huy Cận không cần thấy khói hoàng hôn nhưng trong lòng vẫn dâng lên một nỗi nhớ quê hương da diết. Đó như một thứ tình cảm thường trực vẫn luôn chất chứa trong lòng người con xa quê, mà không cần một tác động nào từ bên ngoài, vẫn thấy nhớ quê, thương quê. Phân tích 2 khổ cuối bài Tràng giang càng thấy rõ hơn bức tranh quê hương đẹp đẽ, nên thơ với những hình ảnh quen thuộc của làng quê Việt Nam như bờ sông, cánh bèo, củi khô, áng mây. Đó là tình yêu quê hương đất nước sâu nặng, đã thấm vào từng con chữ. Đồng thời trong đó cũng thể hiện khát khao tìm được sự đồng điệu trong thế giới bao la của một tâm hồn thi sĩ luôn băn khoăn một “nỗi sầu nhân thế”. Phân tích 2 khổ cuối bài Tràng Giang- Mẫu 11 Huy Cận tưởng như là người lữ khách với niềm đam mê bất tận về một vẻ đẹp buồn âu sầu ảo não, vậy nên thi nhân đã không ngại bỏ buồn vào không gian, lượm lặt từ những chất thơ tế vi mỏng manh của tạo vật để làm nên những bức tranh không gian mang nỗi hoài cổ của chính mình. Hai khổ thơ cuối Tràng Giang là những vần điệu mang đậm nét âm hưởng ấy. “Bèo dạt về đâu hàng nối hàng Mênh mông không một chuyến đò ngang Không cầu gợi chút niềm thân mật Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”. Hình ảnh cánh bèo từ bao lâu nay gửi mình vào trong thơ luôn là hình ảnh gợi về sự mỏng manh, vô định và rẻ rúm của kiếp người. Trên điệu chảy nhịp trôi chầm chậm của câu thơ này, một lần nữa xúc cảm ấy lại được gợi về. Những hàng bèo nối đuôi nhau, cứ chảy trôi bất tận, dòng sông hay cũng chính là dòng đời vô định chảy trôi khiến cho kiếp người bé nhỏ cảm thấy bơ vơ, bế tắc và mất phương hướng. câu thơ mang âm hưởng buồn man mác, một nỗi buồn đậm chất Huy Cận. Nhất là hình giữa dòng mênh mông vô bờ ấy, một chuyến đò ngang gợi niềm thân mật, gợi sự kết nối cũng không xuất hiện dù chỉ thoáng qua, mà còn lại đây chỉ đơn côi với những cánh bèo vô thức trôi. Chính vì thế không gian sông nước vốn dĩ mênh mông, vốn dĩ đã làm nên những biển buồn bất tận bỏ vào lòng người, nhưng nay không chỉ là sức gợi vô tận về nỗi buồn mà còn mang một chiều sâu khác về sự đứt gãy nối kết. Biểu tượng cây cầu bao giờ cũng là điểm tựa để cho người đọc cảm nhận mãnh liệt nhất về sự gắn kết, của sự gắn bó và nối tiếp. Thế nhưng ở đây, nó không xuất hiện phải chăng là một chỉ dấu ngầm cho sự đứt gãy kết nối, đứt gãy những mắt xích gắn kết, hay cũng là một chỉ dấu để độc giả cảm nhận được về sự cô đơn trống vắng hoang hoải đến bất tận trong tâm hồn con người. Còn đò ngang là nơi bấu víu, là nơi con người tìm đến để có thể vượt qua cách trở về không gian mà đến gần với nhau hơn, nhưng giờ đây ngay cả điểm tựa duy nhất ấy cũng đã biến mất không dấu vết. Trả lại cho nhân vật trữ tình chỉ là những bãi trống hoang hoải cô liêu của bờ xanh bãi vàng, ta bỗng nhớ đến hình ảnh những bãi xanh hun hút bận tận không cùng trong câu thơ Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điểm. Các tính từ, các từ láy “lặng lẽ” một lần nữa nhấn thêm vào sự trống vắng, mênh mông và cô đơn vời vợi của tâm hồn, của lòng người. “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa Lòng quê dợn dợn vời con nước Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Khổ thơ cuối có thể coi là tuyệt bút tuyệt hoa mà Huy Cận đặc dùng. Mây cao núi bạc, khung cảnh mới thật hùng vĩ, tráng lệ làm sao, đó là những chất liệu mang màu cổ điển được họa sĩ Huy Cận vờn phối cho bức tranh chiều tà nhuốm màu buồn man mác của chính mình. Khiến cho chỉ một câu thơ ngắn, nhưng lại gợi về thăm thẳm những mênh mông và rợn ngợp từ quá khứ đuổi về hiện tại, từ cổ điển gọi về hiện đại. Cánh chim gọi buổi chiều, tín hiệu ấy dường như không còn xa lạ nữa, thế nhưng vào trong thơ Huy Cận nó vẫn chở những xúc cảm của riêng nhà thơ vào trong đó. Tưởng như cánh chim nhỏ bé và đơn côi ấy, đã chờ cả buổi hoàng hôn trên đôi cánh của mình, tưởng như đã chở cả cái không cùng và cô đơn vời vợi của kiếp người ở trên đó. Dấu hai chấm tưởng như một sự ngăn cánh, để làm điểm nhấn cho độ nghiêng rất nghệ mà cũng rất tinh của cánh chim nhỏ, hay có thể là dụng ý của nhà thơ để cả câu thơ nâng đỡ cả điệu hồn của thi nhân gửi vào đó. Hai câu thơ cuối, đứng trước thiên nhiên rộng lớn mênh mông, thi nhân bỗng trào dâng một nỗi nhớ nhà khôn nguôi, nỗi nhớ ấy là nỗi nhớ luôn trở đi trở lại như một lời khấn khứa, như một khắc khoải khôn nguôi xuất phát từ tấm lòng của một cái tôi đứng trên quê hương mà vẫn cảm thấy thiếu vắng quê hương. Hoàng hôn thường là mốc thời gian gợi nhớ gợi buồn, nhưng ở đây không gian ấy chỉ đơn thuần là ngoại giới, còn trong nội tâm nhà thơ, thì toàn bộ tâm hồn đã hướng trọn về tình quê mất rồi. Lấy cái không để gợi về cái có, để gợi về nỗi lòng, để khơi gợi sự đồng điệu đó chính là cái tài trong bút thơ Huy Cận. Hai khổ thơ cuối Tràng Giang, dường như là những mạch chảy mạnh mẽ nhất của tâm trạng thi nhân, tưởng như nếu lắng mình nghiêng lòng xuống trang sách có thể cảm được điệu tâm hồn buồn và cô đơn của cái tôi thơ Mới chở mang trong đó. Phân tích 2 khổ cuối bài Tràng Giang- Mẫu 12 Nhà thơ Huy Cận là một nhà thơ nổi tiếng với làng thơ mới, mỗi tác phẩm của ông đều gửi gắm những tâm trạng, nỗi buồn phiền, sầu muộn của mình trong đó. Bài thơ Tràng Giang là một bài thơ tiêu biểu gắn liền với Huy Cận, thể hiện nỗi buồn của tác giả trước nhân tình thế thái, trước nỗi buồn nhân thế. Thể hiện tình cảm yêu quê hương, đất nước của tác giả. Đặc biệt là hai khổ thơ cuối thể hiện rõ nét tâm trạng phiền não, sầu muộn của tác giả Huy Cận với những nỗi sầu nhân thế. “Bèo dạt về đâu hàng nối hàng Mênh mông không một chuyến đò ngang Không cầu gợi chút niềm thân mật Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng” Hình ảnh từng cụm bèo lững lờ trôi trên sông vô định không biết đời mình rồi sẽ đi đâu về đâu, trong bối cảnh không gian mênh mông sông nước trời biển bao la, thời gian là cảnh chiều tà, nhìn những đám bèo trôi vô định, không có phương hướng khiến cho tác giả cảm thấy nôn nao buồn. Một nỗi buồn nhân thế không biết tỏ bày cùng ai, chỉ có thể gửi gắm vào những câu thơ của riêng mình. Trong câu thơ “mênh mông” hai từ láy này gợi lên cho người đọc sự sầu muộn bao la, trước cảnh sông chiều nhưng không có một con đò nhỏ để qua sông, càng làm cho lòng người thêm man mác. Tác giả đã sử dụng nghệ thuật đối lập giữa không gian và con người bé nhỏ, không gian càng mênh mông thì con người càng cảm thấy mình thật cô đơn bé nhỏ, lạc lõng biết bao nhiêu. Khung cảnh thiên nhiên thể hiện như tâm trạng của nhà thơ Huy Cận lúc này đều gợi lên tâm trạng buồn. Giữa đất trời sông nước bao la không tìm được một người bạn tâm giao tri kỷ, không ai có thể hiểu nỗi lòng của tác giả, làm cho nỗi cô đơn cứ thế mà xô sóng ở trong lòng, con người cảm thấy mình thật bé nhỏ, bất lực trước cuộc sống hiện tại. “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.” Cánh chim chiều nghiêng bóng trước hoàng hôn, một cánh chim nhỏ nhoi lẻ loi trên bầu trời bao la rộng lớn, thể hiện sự cô liêu khắc khoải. Cánh chim chiều chao nghiêng kia phải chăng chính là hiện thân của tác giả lúc này, đang cảm thấy trào dâng nghiêng ngả những cơn sóng lòng. Đang cảm thấy mình lẻ loi, cô đơn trước cuộc đời bao la rộng lớn. Thiên nhiên trong khổ thơ này gợi lên cho người đọc cảm giác buồn thê lương, não lòng, đúng như câu thơ của Nguyễn Du viết trong tác phẩm Truyện Kiều rằng Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” để thể hiện sự cô đơn, lẻ loi buồn chán của tác giả trước thiên nhiên, cuộc đời. Tác giả Huy Cận đã vô cùng tinh tế khi đặt cánh chim đối lập cô đơn với không gian bao la rộng lớn, mênh mông của đất trời, vũ trụ. “Lòng quê rờn rợn vời con nước Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.” Trong hai câu thơ này thể hiện tâm trạng nhớ nhà nhớ quê hương của tác giả Huy Cận. Người xưa thường nhìn khói lam chiều gợi lên cảnh nhớ nhà, nhớ mùi khói bếp thơm ngai ngái để hướng tới quê hương, gia đình, hướng tới người thân thương nhất của mình. Nhưng Huy Cận viết “không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” thể hiện nỗi nhớ của ông là nỗi nhớ thường trực, nó luôn chứa đựng in sâu trong lòng tác giả, không cần phải có chất xúc tác là khói lam chiều mới nhớ. Bài thơ “Tràng Giang” là một bài thơ vô cùng hay thể hiện bức tranh quê hương trong cảnh hoàng hôn vô cùng tươi đẹp, sinh động, với hình ảnh thân thuộc như cánh chim, mây trời, sông nước, rồi những cánh bèo trôi. Phân tích hai khổ cuối bài Tràng giang xong, chúng ta có thể thấy tất cả đều gợi lên một bức tranh chiều tà vô cùng tinh tế, tươi đẹp nhưng thể hiện một nỗi sầu nhân thế vô cùng sâu sắc trong lòng tác giả. Lời kết Bài viết bao gồm dàn ý và top những bài văn phân tích 2 khổ cuối bài Tràng Giang của tác giả Huy Cận theo một số mẫu được chúng tôi tổng hợp cũng như sưu tầm nhằm giúp các em học sinh có thể nắm được những yếu tố cần thiết trong một bài văn phân tích cũng như giúp các em học sinh làm và hoàn thành tốt bài văn phân tích của mình. Phân Tích 2 Khổ Đầu Bài Tràng Giang ❤️️ 23 Bài Mẫu Khổ 1 2 ✅ Giúp Bạn Định Hướng Viết Bài Làm Văn Hay Và Phân Tích Đầy Đủ Ý Chính Hơn Nhé. Hai Khổ Thơ Đầu Tràng GiangDàn Ý Phân Tích 2 Khổ Thơ Đầu Bài Tràng GiangDàn Ý Phân Tích 2 Khổ Đầu Bài Tràng Giang Ngắn NhấtMở Bài Phân Tích 2 Khổ Thơ Đầu Bài Tràng GiangKết Bài Phân Tích 2 Khổ Đầu Bài Tràng Giang Huy Cận HayVăn Mẫu Phân Tích Hai Khổ Thơ Đầu Bài Tràng Giang – Mẫu 1Bài Văn Phân Tích 2 Khổ Thơ Đầu Bài Tràng Giang Của Huy Cận – Mẫu 2 Phân Tích 2 Khổ Đầu Bài Tràng Giang Huy Cận Hay – Mẫu 3Phân Tích Khổ 1 2 Tràng Giang Hay Nhất – Mẫu 4Phân Tích 2 Khổ Thơ Đầu Bài Tràng Giang Ngắn – Mẫu 5Phân Tích Khổ 1 2 Bài Tràng Giang Ngắn Gọn – Mẫu 6Phân Tích Bài Thơ Tràng Giang 2 Khổ Đầu Ngắn Nhất – Mẫu 7Phân Tích 2 Khổ Đầu Bài Tràng Giang Siêu Ngắn – Mẫu 8Phân Tích 2 Khổ Thơ Đầu Tràng Giang Chi Tiết – Mẫu 9Phân Tích Hai Khổ Đầu Bài Tràng Giang Đầy Đủ – Mẫu 10Phân Tích Tràng Giang 2 Khổ Đầu Nâng Cao – Mẫu 11Phân Tích 2 Khổ Đầu Bài Tràng Giang Học Sinh Giỏi – Mẫu 12Phân Tích Hai Khổ Thơ Đầu Bài Tràng Giang Học Sinh Giỏi Chọn Lọc – Mẫu 13Phân Tích 2 Khổ Đầu Tràng Giang Đặc Sắc – Mẫu 14Phân Tích Hai Khổ Thơ Đầu Của Bài Tràng Giang Đạt Điểm Cao – Mẫu 15Phân Tích Hai Khổ Thơ Đầu Bài Thơ Tràng Giang Mở Rộng – Mẫu 16Phân Tích Hai Khổ Thơ Đầu Tràng Giang Sinh Động – Mẫu 17Phân Tích Tràng Giang Khổ 1 2 Luyện Viết – Mẫu 18Phân Tích Bài Tràng Giang 2 Khổ Đầu Ngắn Hay – Mẫu 19Phân Tích Bài Tràng Giang Khổ 1 2 Đơn Giản – Mẫu 20Phân Tích Hai Khổ Thơ Đầu Bài Tràng Giang Để Làm Nổi Bật Bức Tranh Thiên Nhiên – Mẫu 21Phân Tích 2 Khổ Đầu Bài Thơ Tràng Giang Lớp 11 – Mẫu 22Phân Tích 2 Khổ Đầu Bài Tràng Giang Facebook – Mẫu 23 Hai Khổ Thơ Đầu Tràng Giang Đề bài phân tích 2 khổ thơ đầu bài tràng giang là một đề bài ngắn và dễ gặp mỗi khi nhắc tới tác phẩm này. Hai khổ thơ đầu miêu tả bao quát khung cảnh thiên nhiên trên sông. Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệpCon thuyền xuôi mái nước song về nước lại, sầu trăm ngả;Củi một cành khô lạc mấy dòng. Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiềuNắng xuống, trời lên sâu chót vót;Sông dài, trời rộng, bến cô liêu. 1. Phân tích đề Yêu cầu của đề bài phân tích nội dung 2 khổ đầu bài thơ Tràng vi tư liệu, dẫn chứng từ ngữ, chi tiết, hình ảnh tiêu biểu trong 2 khổ thơ đầu bài Tràng giang của Huy pháp lập luận chính phân tích. 2. Hệ thống luận điểm Luận điểm 1 Bức tranh thiên nhiên mênh mang, bất tận khổ 1Luận điểm 2 Không gian và thời gian qua bài thơ khổ thơ 2 Gợi ý cho bạn ☔ Sơ Đồ Tư Duy Tràng Giang ☔ 12 Mẫu Tóm Tắt Hay Dưới đây, xin chia sẻ đến bạn đọc dàn ý Dàn Ý Phân Tích 2 Khổ Thơ Đầu Bài Tràng Giang để bạn dễ dàng trong việc viết bài văn phân tích nhé. I. Mở bài phân tích 2 khổ đầu bài Tràng giang Giới thiệu khái quát về tác giả Huy Cận, bài thơ Tràng Giang, đoạn thơ cần phân tích. II. Thân bài phân tích 2 khổ đầu bài Tràng giang a. Khổ 1 Tràng giang hiện lên với nhiều hình ảnh đẹp trong cổ thi dòng sông, con thuyền, gợn sóng,…Nhưng cảnh đẹp mà lại thấm đượm một nỗi buồn da diết bâng chữ “điệp điệp” gợi hình ảnh những con sóng từng gợn nhẹ nhấp nhô hòa mình vào. Sóng của dòng sông, của thiên nhiên trong phút ấy cũng hóa thành con sóng lòng của thi nhân với từng nỗi buồn cứ thế trùng điệp ở trong lòng..Xưa nay, thuyền – nước vốn là hai sự vật không thể tách rời thế mà nay chúng lại hững hờ như không ăn nhập vào nhân bắt gặp cành củi khô đơn độc “Củi một cành khô lạc mấy dòng” là hình ảnh ẩn dụ để biểu tượng cho kiếp người như thi nhân đang nổi trôi, bơ vơ, vô định giữa dòng chảy của cuộc đời, giữa cuồng phong của một đất nước mất chủ quyền?Tác giả buồn về sự chia li, tách biệt của sự vật, buồn về kiếp người nhỏ bé, vô định giữa cuộc đời. b. Khổ 2 Câu thơ đầu Huy Cận tâm sự rằng ông học được ý từ hai câu thơ của Chinh phụ ngâm “Non Kỳ quạnh quẽ trăng treo/ Bến phì gió thổi đìu hiu mấy gò”.Từ láy “lơ thơ” diễn tả sự rời rạc, thưa thớt của những cồn đất nhỏ nhoi mọc lên giữa dòng sông gợi cảm giác hoang vắng, cô tịch, tiêu điều, xơ chữ “đìu hiu” như càng khắc sâu thêm nỗi buồn hiu hắt làm câu thơ chùng xuống như một tiếng thở dài man thứ âm thanh mơ hồ của một phiên chợ đã vãn theo làn gió lan xa mãi càng gợi thêm sự vắng vẻ, quạnh gian ba chiều rộng lớn “Nắng xuống, trời lên sâu chót vót/ Sông dài trời rộng bến cô liêu”. Đó chính là sự rợn ngợp của hồn người trước cái vô cùng của vũ thơ đã cảm được một nỗi buồn cô đơn đến rợn ngợp, thấy mình nhỏ bé trước vũ trụ bao la, lạc lõng giữa cuộc đời. c. Đánh giá – Nội dung Hai khổ thơ đầu là Nỗi sầu của một tâm hồn cô đơn trước thiên nhiên rộng lớn, chia lìa xa cách. Trong đó thấm đượm tình người, tình đời và lòng yêu nước thiết tha… – Nghệ thuật Sự kết hợp hài hòa giữa sắc thái cổ điển và hiện đại Cổ điển thể thơ thất ngôn; những hình ảnh thơ quen thuộc trong văn học trung đại. Hiện đại sự xuất hiện của những cái tưởng như tầm thường, vô nghĩa; cảm xúc buồn mang dấu ấn “cái tôi” cá nhân…Nghệ thuật đối, bút pháp tả cảnh giàu tính tạo hình, hệ thống từ láy giàu giá trị biểu cảm. III. Kết bài phân tích 2 khổ đầu bài Tràng giang Đánh giá về giá trị của bài thơ, tài năng của tác giả…Nêu cảm nhận của bản thân. Giới thiệu cùng bạn 🍀 Dàn Ý Bài Tràng Giang Chuẩn Nhất 🍀 Mẫu Nghị Luận Hay Dàn Ý Phân Tích 2 Khổ Đầu Bài Tràng Giang Ngắn Nhất Tham khảo mẫu dàn ý phân tích 2 khổ đầu bài Tràng giang ngắn nhất để ôn tập nhanh chóng cho bài viết trên lớp và đây là tài liệu tham khảo cần thiết cho các em học sinh khi làm bài. a Mở bài phân tích 2 khổ đầu bài Tràng giang Giới thiệu sơ lược về tác giả, tác phẩmHuy Cận là một trong những nhà thơ mới nổi tiếng với những tác phẩm mang phong cách rất thơ Tràng giang 1939 bộc lộ nỗi sầu của một cái tôi cô đơn trước thiên nhiên rộng lớn, trong đó thấm đượm tình người, tình đời, lòng yêu nước thầm kín mà thiết thaGiới thiệu 2 khổ thơ đầu Hai khổ thơ đầu bài đã gợi ra cả không gian rợn ngợp, nhưng tâm trạng của con người lại mang cảm giác sầu buồn, cô đơn, nỗi buồn như trải dài vô tận. b Thân bài phân tích 2 khổ đầu bài Tràng giang Khổ 1 Bức tranh thiên nhiên mênh mang, bất tận Những vòng nước xô đuổi nhau đến tận chân trờiQua khổ thơ còn thể hiện nổi buồn miên man của tác giảSự trôi nổi, phó mặc của tác giả trên dòng sông hữu tìnhTâm trạng chia li, tán tác Khổ 2 Không gian và thời gian qua bài thơ Không gian hoang vắng, đìu hiuKhông gian vắng lặng, tĩnh mịchKhông gian được đẩy vô tậnCảnh vật khiến con người trở nên nhỏ bé c Kết bài phân tích 2 khổ đầu bài Tràng giang Nêu cảm nhận của em về 2 khổ đầu bài thơ Tràng giang. Tham khảo trọn bộ 🌟 Phân Tích Tràng Giang Huy Cận 🌟 Những Bài Hay Nhất Mở Bài Phân Tích 2 Khổ Thơ Đầu Bài Tràng Giang chia sẻ thêm đến bạn đọc những mẫu Mở Bài Phân Tích 2 Khổ Thơ Đầu Bài Tràng Giang hay nhất để bạn có được cho mình phần mở bài sâu sắc và ý nghĩa nhé. Đến với phong trào Thơ Mới, ta được hoà mình trong vườn thơ đầy hương sắc tuyệt diệu của các thi nhân. Ta không khỏi rạo rực, hứng khởi trước những vần thơ táo bạo, tràn đầy năng lượng mê hoặc của Xuân Diệu, không khỏi buồn man mác trước hồn thơ sáng trong của Thế Lữ, thổn thức trước hình ảnh thơ đầy kì dị của Chế Lan Viên, hay say sưa trước hồn thơ quê bình dị mà thân thương của Nguyễn Bính. Và đặc biệt, đến với thơ Huy Cận, ta bắt gặp nét buồn riêng biệt, độc đáo đó là một nỗi sầu rợn ngợp, u hoài, trước vũ trụ mênh mang, dường như chân trời của những nỗi buồn của nhà thơ cứ thế dài vô tận. Bài thơ “Tràng giang” là tác phẩm tiêu biểu cho nét phong cách đó của Huy Cận. Bài thơ được in trong tập thơ Lửa thiêng viết vào năm 1940. Đặc biệt trong 2 khổ thơ đầu của tác phẩm đã bộc lộ tâm trạng u buồn của con người trước cảnh vật rộng lớn bao la, khắc hoạ sự cô đơn buồn thương đến tuyệt đối. Mời bạn xem nhiều hơn 🌹 Mở Bài Tràng Giang 🌹 20 Đoạn Văn Mẫu Hay Kết Bài Phân Tích 2 Khổ Đầu Bài Tràng Giang Huy Cận Hay Khi viết phân tích 2 khổ đầu bài Tràng giang kết bài, các em học sinh cần đưa ra những đánh giá khái quát về đoạn thơ. Tham khảo mẫu kết bài phân tích 2 khổ đầu bài Tràng giang Huy Cận hay dưới đây 2 khổ thơ đầu trong bài Tràng giang tuy ngắn ngọn nhưng âm điệu trầm buồn vẫn dư vang và sâu lắng, điều đó thể hiện rằng nỗi buồn đã ngấm sâu trong lòng tạo vật và tâm hồn nhà thơ. Nhịp điệu và thanh điệu thể thơ thất ngôn chất chữa nỗi sầu mênh mang, trôi chảy triền miên. Đoạn thơ thơ gợi lên cho người đọc một nỗi buồn man mác và những suy nghĩ, chiêm nghiệm về nỗi cô đơn của con người giữa cuộc đời rộng lớn. Có thể nói, Huy Cận đã thể hiện được cái tôi độc đáo của mình trong thơ. Bài thơ bồi đắp, nuôi dưỡng cho tâm hồn mỗi người về tình yêu thiên nhiên tha thiết, lòng sâu nặng với quê hương dân tộc. Để rồi năm tháng lặng lẽ chảy trôi, tiếng thơ Huy Cận vẫn còn âm vang mãi trong lòng độc giả. Có thể bạn sẽ thích 🌼 Kết Bài Tràng Giang 🌼 20 Đoạn Văn Mẫu Hay Nhất Văn Mẫu Phân Tích Hai Khổ Thơ Đầu Bài Tràng Giang – Mẫu 1 Khám phá thêm bài Văn Mẫu Phân Tích 2 Khổ Thơ Đầu Bài Tràng Giang. Lưu lại ngay để tham khảo bạn nhé. Thơ là cây đàn muôn diệu của tâm hồn của nhịp thở con tim, thơ diễn tả rất thành công mọi cung bậc cảm xúc của con người, niềm vui, nỗi buồn sự cô đơn tuyệt vọng. Có những tâm trạng của con người chỉ có thể diễn đạt bằng thơ, vì vậy thơ không chỉ nói hộ lòng mình mà thơ còn thể hiện những băn khoăn suy nghĩ về sự biến đổi của thế sự với cảm xúc dạt dào khi thấy cái tôi nhỏ bé trước vũ trụ bao la Huy Cận đã viết nên tác phẩm “Tràng Giang”, đặc biệt qua hai khổ thơ đầu của đoạn thơ ta cảm nhận rõ được điều đó. Quả không sai khi nói rằng với người làm thơ, thơ là phương tiện biểu đạt cho cảm xúc cảm xúc chân thành, mãnh liệt mới là cơ sở tạo nên một tác phẩm nghệ thuật chân chính, cảm xúc càng mãnh liệt, thăng hoa thơ càng có sức ám ảnh trái tim bạn đọc. Mang trong mình sứ mệnh cao cả của một nhà thơ khi sáng tạo nghệ thuật cùng với nỗi buồn thế sự đầy sâu sắc Huy Cận đã xây dựng được một phong cách hoàn toàn mới mẻ, khác với những nhà thơ cùng thời. Tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của ông có thể kể đến “Tràng Giang”, theo lời kể của Huy Cận bài thơ được gợi cảm xúc từ một buổi chiều thu năm 1939 khi tác giả đứng ở bờ Nam Bến Chèm. Trước cảnh sông Hồng mênh mang sóng nước, những cảm xúc thời đại đã dồn về khi thi sĩ thấy cái tôi của mình quá nhỏ bé so với vũ trụ nên ông đã gửi gắm vào trong tác phẩm. Và cảm xúc của nhà thơ có lẽ thể hiện rõ nhất qua hai khổ thơ đầu. “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệpCon thuyền xuôi mái nước song về nước lại sầu trăm ngả,Củi một cành khô lạc mấy dòng Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiềuNắng xuống trời lên sâu chót vót,Sông dài trời rộng bến cô liêu”. Hai khổ thơ là bức tranh thiên nhiên sông nước hùng vĩ đồng thời ẩn chứa trong đó là một trái tim đa sầu, đa cảm với biết bao cảm xúc chan chứa không nói nên lời. Mở đầu bài thơ Nhà thơ Huy Cận đã sử dụng một loạt các thi liệu trong thơ Đường “thuyền, sóng”. Đây là một bức tranh đẹp nhưng lại buồn đến tê tái, nói về điều này nhà phê bình Hoài Thanh đã nhận xét thiên nhiên trong thơ mới đẹp, nhưng lại buồn đến da diết bâng khuâng. Nỗi buồn đó được lý giải trong câu nói của Huy Cận lúc đó chúng tôi mang một nỗi buồn đó là nỗi buồn thế hệ, chưa làm được gì cho đất nước trước cảnh nước mất nhà tan. “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,Con thuyền xuôi mái nước song song”. Từ “điệp điệp”, đã diễn tả tinh tế hình tượng của sóng nước. Những con sóng ấy sao hết lớp này đến lớp khác triền miên, vô tận. Ở đây nhà thơ miêu tả cái buồn của thiên nhiên hay cái buồn của con người, có lẽ là cả hai bởi Nguyễn Du từng viết. “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Dường như nỗi buồn của tâm cảnh đã nhuộm vào ngoài cảnh để rồi những nỗi buồn ấy gợi lên theo từng đợt trong lòng thi nhân. Thuyền và nước là hai sự vật luôn đi cùng với nhau vậy mà ở trong tác phẩm này nó lại trở nên bơ vơ, lạc lõng. Thuyền là hiện diện của sự sống con người, nhưng đó chỉ là sự xuất hiện thoáng qua trong giây lát, “con thuyền xuôi mái” là hình ảnh thực nhưng cũng đầy chất suy tưởng nó gợi cho ta nhớ tới hình ảnh của những kiếp người trôi nổi, lạc lõng không biết đi đâu. Phải chăng chính Huy Cận cũng đã bắt gặp bóng dáng đó trong cuộc đời mình khi.“Bâng khuâng đứng giữa hai dòng nước, Chọn một dòng hay để nước trôi đi”. “Thuyền về nước lại sầu trăm ngả,Củi một cành khô lạc mấy dòng”. Con thuyền và cành củi khô là hai hình ảnh được sử dụng hết sức táo bạo, chúng đang cùng xuôi trên dòng tràng giang. Trong thơ của mình Huy Cận đã nhiều lần nhắc đến nỗi sầu buồn thiên thu, đến đây ta lại bắt gặp thêm một nỗi sầu nữa đó là sầu trăm ngả. Chỉ với 3 từ cùng một cành củi khô đã nói lên được hình ảnh của những kiếp người nhỏ bé trong xã hội cũ, nếu trong thơ trung đại mỗi hình ảnh chất liệu đưa vào thơ đều phải được gọt giũa, chọn lọc như tùng, cúc, trúc, mai thì trong Tràng Giang Huy Cận đã đưa vào một hình ảnh rất đời thường củi khô. Phải chăng cành củi khô ấy cũng chính là nỗi cô đơn lạc lõng trong lòng tác giả, chính lúc bắt gặp cành củi khô ấy tác giả đã đối diện với những cái hữu hạn lớn lao của đất trời từ đó nỗi sầu nhân thế ấy đã được nêu lên trở thành nỗi buồn chung của một thế hệ thanh niên yêu nước. Vẫn là bức tranh thủy mặc sông nước ấy nhưng nó đã được vẽ thêm đất, thêm làng vậy mà nỗi buồn tái tê ấy vẫn hiện diện, nó được gợi lên qua sự tiêu điều của những cồn cỏ, sự hiu hắt của gió và sự vắng vẻ của cảnh vật. “Lơ thơ cồn cỏ gió đìu hiu,Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”, Trong Chinh Phụ ngâm ta đã từng bắt gặp “Non kỳ quạnh quẽ trăng treo,Bến phì gió thổi đìu hiu mấy gò”. Dường như ngọn gió đìu hiu ấy đã vượt thời gian, xuyên không gian và trôi vào thơ Huy Cận. Từ láy “lơ thơ”, đã diễn tả được sự thưa thớt, rời rạc của những hòn đất nhỏ mọc trên dòng “Tràng Giang”. Trên những cồn đất ấy là hình ảnh của những cây lau, cây sậy mỗi khi gió thoáng qua nó trở nên hắt hiu tiêu điều. Câu thơ như chùng xuống càng xoáy sâu vào tâm hồn của nhà thơ, khiến ông càng trở nên bất lực và muốn tìm đến hơi ấm của con người. “Đâu tiếng làng xa”, là ở đâu không xác định, âm thanh ấy nghe thật mơ hồ, vậy mà đó lại là âm thanh của chợ đã vãn nghe càng buồn hơn, cũng viết về chợ nhưng trong thơ của Nguyễn Trãi hình ảnh ấy lại hiện lên thật náo nhiệt đông đúc. “Lao xao chợ cá làng ngư phủ” Vui nhất là âm thanh của chợ vui, buồn nhất là âm thanh của chợ vãn. Ở câu câu thơ này cái tinh tế của Huy Cận là ở chỗ ông lấy động để nói tĩnh, lấy tiếng chợ vãn để gợi nên không khí vắng lặng của không gian đồng thời thể hiện mong muốn được giao hòa, giao cảm của con người dù đó chỉ là thính giác. Đã có ý kiến cho rằng, dòng Tràng giang là một giải buồn mênh mang. Thật đúng như vậy và hai câu thơ tiếp theo cái buồn của thiên nhiên của con người đã được tác giả đặt đến cái khôn cùng của nó. “Nắng xuống trời lên sâu chót vót,Sông dài trời rộng bến cô liêu”. Đến đây nhà thơ đã vẽ nên một không gian ba chiều rộng lớn là chiều cao, chiều dài, chiều rộng, còn nhà thơ thì đứng ở bến cô liêu nơi giao thoa của vũ trụ đối lập giữa không gian lớn lao với cái tôi nhỏ bé của con người. Từng vạt nắng chiếu xuống mặt nước phản chiếu lên bầu trời không gian như được đẩy lên cao hơn đến sự khốn cùng của nó “sâu chót vót”, là từ ngữ không chỉ để nói về độ sâu, mà còn dùng để nói về độ cao, tạo cho người đọc cảm giác về sự rợn ngợp của không gian và đứng trước không gian đó con người càng trở nên nhỏ bé đáng thương hơn. Tác phẩm đã khép lại nhưng mỗi lần đọc bài thơ nói chung và hai khổ thơ đầu nói riêng ta như thấy được nỗi sầu nhân thế của tác giả trong cảnh thiên nhiên hùng vĩ. Cuộc sống là điểm xuất phát là, đối tượng khám phá, là cái đích cuối cùng của thơ ca. Những tác phẩm nghệ thuật chân chính luôn bắt rễ từ đời sống hiện thực và có sức lan tỏa mãi trong trái tim bạn đọc. Đến với Tràng Giang của Huy Cận ta như khám phá được những nỗi niềm nhà thơ ký thác, nghe được tiếng thở dài bất lực của thi nhân trước cảnh nước nhà đang chìm trong khói lửa của chiến tranh, sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại, sử dụng nhiều thi liệu trong thơ cổ, từ ngữ giản dị giàu hình ảnh, tất cả đã được làm nên thành công cho Tràng Giang của Huy Cận. Gửi tặng bạn 💕 Nghị Luận Tràng Giang 💕 15 Bài Văn Ngắn Gọn Hay Nhất Bài Văn Phân Tích 2 Khổ Thơ Đầu Bài Tràng Giang Của Huy Cận – Mẫu 2 Cập nhật thêm Bài Văn Phân Tích 2 Khổ Thơ Đầu Bài Tràng Giang của Huy Cận để cảm nhận rõ hơn một hình ảnh con sông chất chứa bao nỗi buồn sâu thẳm Khác với hồn thơ sôi nổi, nhiệt huyết gắn với công cuộc đổi mới sau cách mạng tháng 8. Thơ Huy Cận những năm trước cách mạng lại mang nét u sầu, buồn bã trước thời cuộc. Chẳng thế mà “Tràng giang” ra đời lại khắc họa nét cô đơn của cá thể trước không gian bao la của thiên nhiên. Cùng với nét u buồn khắc khoải trước không gian mênh mông, bài thơ còn là nỗi nhớ quê hương, thương đất nước đang chìm trong tang thương của thi sĩ. Bài thơ được sáng tác vào năm 1939 in lần đầu tiên trên báo “Ngày nay” sau đó in trong tập “Lửa thiêng” – tập thơ đầu tay của Huy Cận. Cũng chính tập thơ này đã đưa ông trở thành gương mặt tiêu biểu của phong trào “Thơ mới” thời kì đầu. Ngay khi đọc tên bài thơ “Tràng giang” người ta có thể hình dung được tư tưởng và tâm tư mà tác giả gửi trong đó. Tiêu đề gợi ra một con sông dài, mênh mông, bát ngát. Tuy nhiên, ẩn sau hình ảnh sông dài còn là những mảnh đời bấp bênh, trôi nổi, u sầu. Câu đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” tiếp tục khẳng định nỗi niềm u uất, không biết tỏ cùng ai của nhân vật trữ tình trước không gian bao la của dòng sông. Khổ đầu tiên đến với người đọc bằng hình ảnh con sông buồn, chất chứa những nỗi niềm khó tả “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệpCon thuyền xuôi mái nước song songThuyền về nước lại sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy dòng.” Vừa mới đọc khổ đầu tiên, người đọc thấy được không khí u sầu, buồn bã thông qua các từ “buồn”, “sầu”, “lạc cành khô”. Câu thứ nhất miêu tả sóng, câu thứ hai tả những dòng trôi, những luồng nước trên mặt sông. Nếu như câu thứ nhất gợi được những vòng sóng đang loang ra, lan xa, xô đuổi nhau đến tận chân trời, thì câu thứ hai lại vẽ ra những luồng nước cứ song song, rong đuổi mãi về cuối trời. Trong câu thứ nhất “sóng gợn” là những vòng sóng nhỏ, lăn tăn. Nhưng chỉ cần một gợn sóng ấy thì Tràng giang đã “buồn điệp điệp”. Từ láy hoàn toàn “điệp điệp” như diễn tả nỗi buồn chồng chất lên nhau, hết lớp này đến lớp khác. Hình ảnh con thuyền “xuôi mái nước song song” lại gợi về cảm giác đơn độc trên dòng nước mênh mông vô tận. Hai câu thơ kết hợp làm cho không gian vừa mở ra theo bề rộng, vừa vươn theo chiều dài. Tác giả tiếp tục khắc họa nỗi chia li qua câu thơ thứ ba. “Thuyền” và “nước” vốn dĩ là hai hình ảnh gắn bó, khăng khít với nhau nhưng qua con mắt của nhân vật trữ tình thì lúc này hai hình ảnh ấy không còn song hành với nhau nữa. “Sầu trăm ngả”, nỗi buồn, sự u hoài, buồn bã càng ngày càng dâng lên. Với câu thơ thứ tư tác giả sử dụng biện pháp đảo ngữ “củi một cành khô” để nói về sự cô đơn, trơ trọi của “củi”. Số từ “một” chỉ một mình, cô đơn cùng với tính từ “khô” – hết nhựa sống, càng làm cho hình ảnh khô héo hơn. Tác giả thật tài tình khi đã sử dụng nghệ thuật đối “một” – “mấy” như nhấn mạnh hơn sự cô độc của củi trên dòng sông. “Lạc mấy dòng” không chỉ diễn tả nỗi niềm cô đơn của củi mà còn nói đến sự bấp bênh, trôi nổi khi “lạc” hết dòng sông này đến dòng sông khác. Nét độc đáo của câu thơ không chỉ là phép đối mà còn ở cách ngắt nhịp 1/3/3. Với cách ngắt nhịp ấy “củi” xuất hiện “độc lập” và điều đó càng làm rõ hơn tình cảnh lẻ loi của sự vật này. Có thể nói, hình ảnh ” củi một cành khô” đã phần nào nói lên tâm trạng thi sĩ – một con người tài hoa nhưng vẫn đang loay hoay giữa cuộc sống bộn bề. Như vậy, chỉ với khổ thơ đầu tiên bức tranh thiên nhiên buồn, sầu thảm đã hiện rõ. Nét bút kết hợp giữa cổ điển và hiện đại cũng phần nào giúp người đọc rõ hơn về tâm trạng của thi sĩ. Khổ thơ thứ hai tiếp tục là khung cảnh buồn nhưng mang nét đìu hiu, thiếu sức sống. “Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiuĐâu tiếng làng xa vãn chợ chiềuNắng xuống, trời lên sâu chót vótSông dài, trời rộng, bến cô liêu.” Huy Cận thật khéo léo khi sử dụng hai từ láy trong cùng một câu thơ để miêu tả cảnh hoang vu, vắng vẻ hai bên bờ sông “Lơ thơ” – thưa thớt, ít ỏi, ” đìu hiu” – vắng lặng, ít người. Trên “cồn nhỏ” làn gió phảng phất không khí buồn, ảm đạm của chốn ít người, thiếu sức sống. Nó u sầu đến nỗi không nghe thấy tiếng ồn ào của phiên chợ chiều. “Đâu” diễn tả cảm giác mơ hồ, không xác định được điểm tựa để bám víu. Như vậy, chỉ qua vài nét chấm phá của nhà thơ đã hiện lên bức tranh quê thê lương, thiếu sức sống. Đến với hai câu thơ tiếp, dường như tác giả mở rộng tầm nhìn ra qua biện pháp đối “nắng xuống” – “trời lên” đã làm không gian mở rộng về chiều cao, có một khoảng không gian đang giãn nở ra ở giữa. Hai động từ ngược hướng “lên” và “xuống” mang lại cảm giác chuyển động. Nắng càng xuống thì bầu trời càng được kéo cao hơn. Và điểm nhấn chính là “sâu chót vót” – không gian mở rộng cả về chiều sâu. “Chót vót” vốn là từ láy độc quyền khi nhắc đến chiều cao. Còn đã nói tới sâu thì người ta hay dùng “sâu hun hút” hoặc ” sâu thăm thẳm”,…Chính cách dùng từ ngữ đặc sắc của Huy Cận đã gợi ra khoảng không vũ trụ sâu thăm thẳm, đó cũng là lúc nỗi buồn, cô đơn của nhà thơ dâng lên cao, trở nên vô cùng vô tận. Một góc nhìn đầy thú vị, mới mẻ. Câu thơ cuối cùng thi sĩ dùng không gian rộng để nói về nỗi cô đơn, vắng vẻ. “Bến cô liêu” – buồn, thưa thớt trơ trọi giữa không gian rộng lớn của sông, trời. Toàn cảnh khổ hai là một màu cô đơn, vắng vẻ, đối lập với hình ảnh cảnh vật thưa thớt là không gian mênh mông, nhấn mạnh hơn nỗi u sầu vạn cổ. Đặc sắc nghệ thuật trong 2 khổ thơ đầu bài “Tràng giang” trước hết phải nói tới sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố Cổ điển thơ Đường thi và yếu tố thơ mới. Trong bài thơ tác giả sử dụng nhiều từ Hán Việt như tràng giang, bến cô liêu,…cùng với đó là đề tài thiên nhiên cổ kính, hoang sơ, cái tôi bé nhỏ trước thiên nhiên mênh mông mang đậm yếu tố Đường thi. Yếu tố thơ mới được thể hiện thông qua cái tôi giàu cảm xúc, hình ảnh sinh động giàu sức gợi. Bên cạnh đó việc sử dụng các từ láy, phép đối cũng góp phần làm rõ hơn sự bé nhỏ của con người trước vũ trụ rộng lớn. Với “Tràng giang”, Huy Cận không chỉ mang đến bức tranh thiên nhiên rộng lớn, mênh mông mà qua đó tác giả còn nhấn mạnh sự cô đơn của “cái tôi” trước ngân hà rộng lớn. Sự đối lập này phần nào nói lên tình cảnh lẻ loi, sự trôi nổi của những kiếp người. Đồng thời tác giả bộc lộ nỗi niềm nhớ quê hương, tình cảm thiết tha với đất nước của mình. Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất Phân Tích 2 Khổ Đầu Bài Tràng Giang Huy Cận Hay – Mẫu 3 chia sẻ thêm đến bạn đọc mẫu bài văn Phân Tích 2 Khổ Thơ Đầu Bài Tràng Giang Huy Cận Hay nhất. Bạn đọc cùng khám phá ngay nhé. Huy Cận là một trong số những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới với một “hồn thơ ảo não”. Thơ của Huy Cận luôn để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc bởi những khung cảnh thiên nhiên hoang vắng, mênh mang và luôn thấm đẫm một nỗi buồn. Bài thơ “Tràng giang” in trong tập “Lửa thiêng” là một trong số những sáng tác tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận. “Tràng giang” để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc ngay từ nhan đề và câu thơ đề từ của tác phẩm. Nhan đề bài thơ là một từ Hán Việt mang sắc thái cổ kính, với nghĩa là sông dài. Nhưng đặc biệt ở chỗ, tác giả không sử dụng “trường giang” là dùng là “tràng giang” với hai vần “ang’ – hai vần vần mở, có độ vang, độ ngân xa liên tiếp nhau, điều đó đã gợi lên trong cảm nhận của người đọc hình ảnh một con sông vừa dài vừa rộng. Thêm vào đó, câu thơ đề từ của tác phẩm “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” cũng đã khái quát một cách ngắn gọn, đầy đủ tình và cảnh trong bài thơ đó chính là bức tranh thiên nhiên với trời rộng, sông dài và cảm xúc bao trùm toàn bộ bài thơ đó chính là nỗi nhớ, niềm bâng khuâng cùng nỗi buồn như lan tỏa vào trong mọi cảnh vật. Từ nhan đề và câu thơ đề từ của bài thơ, khổ thơ thứ nhất đã mở ra một không gian sông nước sông nước rộng lớn. Câu thơ mở đầu khổ thơ thứ nhất đã mở ra một hình ảnh sông nước mênh mang. Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp Dường như, dòng sông “tràng giang” đã dài nay lại như trải dài ra hơn với từng đợt sóng “điệp điệp” cứ nối đuôi nhau vỗ vào bờ không ngừng nghỉ, không dứt. Những đợt sóng ấy như trải dài đến vô tận càng tô đậm thêm không gian rộng lớn, bao la của sông nước. Và để rồi, trên cái nền sông nước mênh mông ấy, hình ảnh con thuyền hiện lên thật nhỏ nhoi, cứ thế “xuôi mái nước song song”. Hình ảnh đối lập giữa không gian sông nước mênh mông với hình ảnh con thuyền nhỏ bé càng gợi lên trong chúng ta sự cô đơn, le loi. Đặc biệt, khổ thơ thứ nhất còn để lại ám ảnh sâu sắc trong lòng người đọc bởi hai câu thơ cuối của khổ thơ. Thuyền về nước lại sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy dòng Từ xưa cho đến nay, thuyền và nước là hai hình ảnh luôn đi liền với nhau, ấy vậy mà ở đây dường như thuyền và nước như có một nỗi buồn chia lìa đang đón đợi. Có lẽ bởi thế mà cảnh vật ấy càng khiến cho lòng “sầu trăm ngả”. Đặc biệt, giữa cảnh sông nước mênh mông ấy, hình ảnh “củi một cành khô lạc mấy dòng” gợi lên trong lòng người đọc ám ảnh khôn nguôi về cõi nhân sinh, lạc lõng, bơ vơ, không biết rồi sẽ trôi dạt về đâu bởi trăm dòng mênh mông vô định. Như vậy, trong khổ thơ thứ nhất, nếu ví dòng tràng giang là dòng đời vô tận thì hình ảnh con thuyền, cành củi khô chính là hình ảnh tượng trưng cho kiếp người nhỏ nhoi, vô định. Đồng thời, khổ thơ cũng gợi lên nỗi buồn không nguôi, không dứt của tác giả. Nếu trong khổ thơ mở đầu của bài thơ, tác giả vẽ nên không gian sông nước mênh mông thì trong khổ thơ thứ hai, tác giả lại mở ra không gian nơi cồn nhỏ. Hai câu thơ mở đầu khổ thơ thứ hai đã vẽ nên một không gian hoang vắng, hiu quạnh. Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều Với việc sử dụng nghệ thuật đảo ngữ cùng từ láy “lơ thơ”, “đìu hiu” đặc biệt gợi cảm tác giả đã vẽ nên một bức tranh nơi cồn nhỏ vừa thưa thớt, hoang vắng, lạnh lẽo vừa gợi nên một nỗi buồn mênh mang. Thêm vào đó, sự hoang vắng, tĩnh mịch của không gian như càng được tô đậm thêm qua câu thơ “đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”. Có thể nói, đây là một câu thơ có nhiều cách hiểu, “đâu” là đâu có, là phủ nhận âm thanh của tiếng chợ chiều hay là đâu đó, gợi lên âm thanh yếu ớt của tiếng chợ. Nhưng có lẽ dẫu hiểu theo cách nào đi chăng nữa thì câu thơ vẫn gợi lên trong lòng người đọc nỗi buồn, sự hoang vắng, tàn tạ, thiếu vắng đi sự sống của con người. Nếu hai câu thơ đầu khổ hai gợi lên không gian cồn nhỏ vắng vẻ, hiu quạnh thì dường như trong câu ba và câu bốn, không gian ấy như được mở rộng cả về bốn phía làm cho cảnh vật vốn đã vắng vẻ lại càng thêm cô liêu và tĩnh mịch hơn. Nắng xuống, trời lên sâu chót vótSông dài, trời rộng, bến cô liêu Trong hai câu thơ, tác giả dùng “sâu chót vót” thay vì “cao chót vót” bởi lẽ chữ “sâu” không chỉ tả cảnh mà còn tả tình, nó không chỉ gợi lên một khoảng không gian rộng lớn, thẳm thẳm mà còn gợi lên cả nỗi buồn, sự cô đơn đến tột cùng của lòng người trước cái mênh mông, hoang vắng của cảnh vật. Như vậy, trong hai khổ thơ đầu của bài thơ, nỗi buồn của nhà thơ như bao phủ lên mọi cảnh vật, lên không gian rộng lớn và mênh mông. Và để rồi, trong khổ thơ thứ ba của bài thơ, tác giả lên trở về với không gian sông nước với khung cảnh mênh mang, đìu hiu, thiếu vắng đi sự sống của con người. Tóm lại, 2 khổ thơ đầu bài “Tràng giang” của Huy Cận với sự kết hợp giữa màu sắc cổ điển và màu sắc hiện đại cùng những hình ảnh thơ độc đáo đã gợi lên trong chúng ta nỗi buồn, sự cô đơn của một cái tôi trước khung cảnh thiên nhiên bao la, rộng lớn và đặc biệt đó chính là tấm lòng tha thiết với quê hương, với đất nước. Đọc bài thơ, giúp chúng ta hiểu vì sao Xuân Diệu từng đánh giá “Tràng giang là một bài thơ ca hát non sông, đất nước, do đó dọn đường cho lòng yêu giang sơn, Tổ quốc”. Gợi ý cho bạn 🌟 Cảm Nhận Bài Thơ Tràng Giang 🌟 10 Bài Văn Mẫu Hay Nhất Phân Tích Khổ 1 2 Tràng Giang Hay Nhất – Mẫu 4 Đón đọc bài văn mẫu phân tích khổ 1 2 Tràng giang hay nhất được chọn lọc và chia sẻ dưới đây dành cho các em học sinh. Huy Cận – một tiếng thơ man mác nỗi sầu, một tâm hồn hoang hoải, nhạy cảm với từng biến chuyển tinh tế của thiên nhiên. Nhắc đến Huy Cận là nhắc đến thời kì Thơ mới trước năm 1945, khi cái tôi của mỗi cá thể được coi là những vật thể tinh tú nhất, thơ ông luôn thể hiện tinh thần và điểm nhìn cá nhân độc đáo khó hòa lẫn. Trong “Tràng giang”, từng câu chữ đều được Huy Cận phủ lên nỗi buồn da diết, mênh mông bể sở. Cái nỗi buồn khó nắm bắt, khó định hình của một tâm hồn dễ rung động trước cảnh vật, của trái tim khao khát được yêu thương, được hòa quyện. Trước Cách mạng tháng 8 năm 1945, Thơ mới được coi như “tập sách gối đầu giường” của các nam thanh nữ tú đương thời, viết về tình yêu, về nỗi băn khoăn, trắc trở trong tình cảm đôi lứa. Chính vì thế, tinh thần chủ đạo trong những bài thơ của thời kì này là nỗi buồn, sự cô tịch, quạnh hiu. Nhóm bút “Tự lực văn đoàn” bao gồm những cây bút lão luyện như Huy Cận, Xuân Diệu, Chế Lan Viên,… đã tạo nên một thời kì thơ ca lãng mạn, tình tự. “Tràng giang” là một lời tự thuật về cái khắc khoải, buồn đau của một cái tôi nhỏ nhoi giữa mênh mông trời đất. Con người cảm thấy nhỏ bé, cô độc giữa không gian vô tận. Ra đời năm 1940 trong tập “Lửa thiêng”, tác phẩm được coi là tác phẩm đưa Huy Cận lên bậc lão làng trong phong trào Thơ mới. Lấy điểm nhìn từ bờ Nam bến sông Hồng, giữa sông nước bất tận, lòng người gợi lên một nỗi u hoài cho thân phận nhỏ bé, vô định giữa đất trời khắp cùng. Mở đầu bài thơ là lời tựaBâng khuâng trời rộng nhớ sông dài Gợi ra một không gian “rộng”, “dài” của trời và sông, tác giả muốn nhấn mạnh sự cô quạnh của chủ thể con người, “bâng khuâng” giữa đất trời bao la. Trời tuy rộng nhưng lại buồn thương, mênh mang, sông tuy dài nhưng lại quạnh hiu đến thê lương. Phải chăng, thời gian lúc ấy đang là buổi xế tà với ráng lam chiều hoang hoải, con người một thân một mình bâng khuâng giữa không gian rộng mở của cả trời và đất. Nỗi niềm nhà thơ trôi cùng dòng nước lặng lờ dưới sông, cùng đám mây chùng chình trên khoảng không vời vợi. Mang nỗi buồn ấy vào trong từng nhịp thở, mở đầu bài thơ là những nét chấm phá mộc mạc về thiên nhiên Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệpCon thuyền xuôi mái nước song song “Tràng giang” là con sông dài, con sông bất tận với những gợn sóng lăn tăn. Nhịp thơ 4/3 mang âm hưởng chậm rãi, đìu hiu với từ láy “điệp điệp” tả nỗi buồn. Từng đợt sóng trên mặt nước làm nên một câu thơ động. Con sông như trải rộng ra theo tầm nhìn của tác giả. Câu thơ không hề tĩnh, sự lay động của thiên nhiên được tác giả bắt trọn vào câu chữ. Người xưa có câu “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, con sông không đơn thuần chỉ mang dòng nước, mà còn mang có nỗi u buồn của nhân vật trữ tình. Con sông rộng dài hay nỗi buồn ngày càng rộng thêm ra. “Con thuyền xuôi mái nước song song”, trong cái không gian cao vời vợi của trời mây, cái miên man của những con sóng, thuyền trở nên đơn côi đến lạ lùng. Thuyền xuôi theo dòng nước, thuyền vô định để mặc sóng xô đi. Không chỉ là “tràng giang”, con sông dài, mà còn là “song song”, những luồng nước nối đuôi nhau xa mãi tận chân trời. Hai từ láy “điệp điệp” và “song song” tạo âm hưởng vang vọng như âm thanh dội lại giữa núi rừng, khiến câu thơ dài hơn, trầm hơn, dội vào lòng người đọc một nỗi buồn tha thiết. Thuyền về nước lại sầu trăm ngả;Củi một cành khô lạc mấy dòng. Lấy nỗi sầu làm tinh thần chủ đạo, Huy Cận luôn mượn thiên nhiên, nói thiên nhiên sầu hay là nói ra chính cái sầu trong tâm khảm. “Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”, bóng thuyền chỉ mới vừa xuất hiện đã lại biến mất, nước “sầu”, nước buồn nhớ thương thuyền hay chính tác giả buồn sầu. Thuyền đi rồi, nỗi “sầu trăm ngả” có phần mơ hồ, vô cớ. Thuyền nào đi mãi rồi chẳng đến bờ, nhưng nước vẫn mang nỗi nhớ nhung, buồn bã. Trên mặt nước lặng lờ ấy, hình ảnh “củi một cành khô” trôi vô định, “lạc mấy dòng” giữa luồng nước mênh mang. Hình ảnh động, biện pháp đảo ngữ “một cành củi khô” thành “củi một cành khô” gợi sự cô tịch đến tang thương. Sóng cứ lăn tăn, nước cứ hững hờ, chỉ có một cành củi nhỏ bé, khô khốc lạc trôi theo dòng nước, như tiếng lòng kẻ say tình cứ cô độc, man mác trôi. Cả bốn câu thơ đều có những hình ảnh, chi tiết tả sự vận động của nước, của trời, nhưng những âm thanh ấy chẳng đủ để khỏa lấp nỗi chơi vơi trong lòng. Kết cục lại vẫn là sự lạc lõng, cô đơn, hoang hoải trôi theo con nước tới nơi vô định. Tràng giang là một bức tranh miêu tả đa chiều về cảnh sắc thiên nhiên của vùng ven sông trong một buổi chiều tà hiu quạnh. Mở đầu với tầm nhìn ngút mắt của sông, của trời, Huy Cận bắt đầu những nét chấm phá về cây cối, cảnh vật bên bờ sông Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,Đâu tiếng làng xa vãn chợ xuống trời lên sâu chót vót,Sông dài trời rộng bến cô liêu. Liên tiếp những từ láy “lơ thơ”, “đìu hiu” để tả những cồn cát nhỏ rải rác bên sông. Những từ ngữ được tác giả lựa chọn rất khéo léo và đắt giá, đặng làm nổi bật cái trống trải, ít ỏi và thưa thớt của cảnh vật. Những cồn cát đã nhỏ bé lại còn “lơ thơ”, từng cơn gió “đìu hiu” mang cảm giác cô liêu, đáng thương. Dưới tầm nhìn của một tâm hồn thi sĩ, vạn vật đều trở nên tịch liêu giữa trời rộng sông dài. Tả cảnh ven sông, tác giả không hề nhắc đến những bãi đất phù sa màu mỡ, cũng chẳng có bóng người sinh sống. Trong cái nhìn của ông chỉ có những cồn cát, những cơn gió thinh không, một cành củi khô lạc dòng,… Cảnh vật đan xen với nhau, hòa trong nỗi buồn của nhà thơ. Thảng hoặc, âm thanh “tiếng làng xa vãn chợ chiều” xuất hiện. Từ “đâu” gợi sự như có như không, vô hướng không rõ ràng. Thanh sắc cuộc sống mờ nhạt, xa xăm. Tưởng như cảnh vật đã đủ sầu, đủ thảm, thì ngay cả cuộc sống sinh hoạt của con người nơi đây cũng chẳng hề hoạt náo, rộn ràng. Trong bức tranh ráng lam chiều bên triền sông Hồng màu mỡ,, thời điểm đáng ra là giờ khói cơm với những làn khói đụn lên từng hồi thì ở nơi đây, thời gian và cảnh vật chỉ rặt một nỗi buồn. Buồn của lòng người đượm vào thiên nhiên, buồn của đọt nắng sắp tắt. Từ thị giác “cồn nhỏ” trơ trọi, cây cỏ “đìu hiu”, đến cả âm thanh cũng lúc vô lúc hữu, tiếng tan chợ gợi sự tan rã, kết thúc cho một ngày dài lê thê. Nỗi buồn được đẩu tới cao trào với hai câu thơ Nắng xuống trời lên sâu chót vót,Sông dài trời rộng bến cô liêu. “Nắng xuống”, nắng tắt hẳn, thay thế cho những sự chống chọi yếu ớt của mặt trời là màn trời kĩu kịt, nặng nề. Nỗi buồn lên đến “chót vót” rồi lại tràn trề ra cả “sông dài trời rộng”. Sự vô biên được nới rộng cả về chiều dài, bề ngang. “Nắng xuống trời lên”, động từ đối lập “lên” và “xuống” mang lại chuyển động, không gian như đước kéo giãn. Tác giả không dùng “cao chót vót” như thường lệ, mà lại là “sâu chót vót”. Điểm nhìn của thi sĩ không chỉ dừng lại ở độ sâu, độ cao, mà còn là cái nhìn hun hút vào bầu trời để tìm thấy đáy giữa màn trời đang từng bước xâm chiếm không gian. Dường như ánh mắt của chủ thể trữ tình đi tới đâu, bầu trời sẽ rộng hơn, sâu hơn tới đó. Chính vì vậy mà cảm “cô liêu” lẻ bóng mới ngày càng trở nên sâu đậm. Giữa sông dai, trời rộng, chỉ có bến là lưng chừng ở giữa, quạnh hiu không một bóng người. Tâm hồn rung cảm của thi sĩ cũng cảm thấy chơi vơi, buồn bã bởi sự vắng vẻ của bến bờ. Hình ảnh bến đò trước giờ vẫn là biểu tượng của kẻ đi người ở, của sự xa lìa chia cắt. Đứng giữa màu trời chiều này, sự thê lương lại càng được tô đậm thêm rõ nét. Với hồn thơ trữ tình lãng mạn cùng cái tôi nhạy cảm, thuần khiết, Huy Cận đã tạo nên một tác phẩm nghệ thuật, trong thơ có họa, trong thơ có tình. 2 khổ thơ đầu Tràng giang mượn cảnh hoàng hôn bên bờ sông với đất trời mênh mang, tác giả gửi vào đó những rung động của một kẻ si tình. Tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương cùng cái tôi nổi bật, ngòi bút độc đáo với khả năng sử dụng ngôn từ đặc sắc, xúc tích mà bao hàm, Tràng Giang đã đưa Huy Cận lên vị trí lão làng trong nền văn học Việt nói chung và thời kì Thơ mới nói riêng. Theo đúng tinh thần sâu khổ, buồn thương, bài thơ mang đến cho độc giả một cảm giác thê lương, cô quạnh đến nao lòng. Tràng Giang là lời tâm sự, giãi bày của một người con tha hương xa quê, trước cảnh đẹp động lòng của thiên nhiên xế chiều mà tức cảnh sinh tình, xuất khẩu thành thơ. Giữa cái mênh mông, rộng lớn tột cùng của thiên nhiên là một trái tim khao khát được cảm, được yêu thương, một cái tôi cô tịch, nhạy cảm, mỏng manh. Khám phá thêm 💕 Phân Tích Khổ 1 Tràng Giang 💕 Những Bài Phân Tích Hay Phân Tích 2 Khổ Thơ Đầu Bài Tràng Giang Ngắn – Mẫu 5 Mời bạn đọc cùng tham khảo bài văn mẫu Phân Tích 2 Khổ Thơ Đầu Bài Tràng Giang Ngắn dưới đây nhé. Huy Cận là nhà thơ nổi tiếng trong phong trào Thơ mới 1930 – 1945 với những tác phẩm có sự kết hợp giữ yếu tố hiện đại và cổ điển. Phong cách sáng tác của ông có sự khác biệt lớn gắn liền với hai thời điểm trước cách mạng tháng Tám và sau cách mạng tháng Tám. Bài thơ “Tràng giang” được viết trong thời kì trước cách mạng với một nỗi niềm chất chứa u buồn. Gợi lên sự bế tắc trong cuộc sống của kiếp người trôi nổi lênh đênh. Bài thơi để lại trong lòng người đọc nhiều nỗi niềm khó tả. Ngay từ nhan đề bài thơ, tác giả đã có thể khái quát được tư tưởng và cảm xúc chủ đạo của bài thơ. Hai chữ “Tràng giang” có thể nói là một con sông dài, mênh mông và bát ngát. Nhưng chính tràng giang này cũng gợi lên được tâm tư của người trong cuộc khi muốn nhắc tới những thân phận nổi trôi, bé nhỏ sống lênh đênh trên con sông dài. Lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” một lần nữa khái quát nên chủ đề của bài thơ chính là nỗi niềm không biết bày tỏ cùng ai khi đứng giữa trời đất mênh mông và bao la. Cả bài thơ toát lên được vẻ đẹp vừa hiện đại vừa cổ điển, cũng là đặc trưng trong thơ của Huy Cận. Bước vào bài thơ, khổ thơ đầu tiên đã khiến người đọc liên tưởng đến một con sông chất chứa bao nỗi buồn sâu thẳm Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp…Củi một cành khô lạc mấy dòng Với một loạt từ ngữ gợi buồn thê lương “buồn”, “xuôi mái”, “sầu trăm ngả, lạc mấy dòng” kết hợp với từ láy “điệp điệp”, “song song” dường như đã lột tả hết thần thái và nỗi buồn vô biên, vô tận của tác giả trong thời thế nhiều bất công như thế này. Ngay khổ thơ đầu, nét chấm phá của cổ điển đã hòa lẫn với nét hiện đại. Tác giả đã mượn hình ảnh con thuyền xuôi mái và hơn hết là hình ảnh “củi khô” trôi một mình, đơn lẻ trên dòng nước mênh mông, vô tận, vô định. Sức gợi tả của câu thơ thực sự đầy ám ảnh, một con sông dài mang nét đẹp u buồn càng khiến người đọc thấy buồn và thê lương. Vốn dĩ thuyền và nước là hai thứ không thể tách rời nhau. Nhưng trong câu thơ tác giả viết “thuyền về nước lại sầu tram ngả”. Liệu rằng có uẩn khúc gì chăng, hay là sự chia lìa không báo trước, nghe xót xa và nghe quạnh long hiu hắt quá. Một nỗi buồn đến tận cùng, mênh mang cùng sông nước dập dềnh. Điểm nhấn của khổ thơ chính là ở câu thơ cuối với hình ảnh “củi” gợi lên sự đơn chiếc, bé nhỏ, mỏng manh, trôi dạt khắp nơi. Có thể nói câu thơ đã nói lên được tâm trạng của các nhà thơ mới nói chung ở thời kỳ đó, một kiếp người đa tài nhưng vẫn long đong, loay hoay giữa cuộc sống bộn bề chật chội như thế này. Đến khổ thơ thứ hai dường như nỗi hiu quạnh lại được tăng lên gấp bộ Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu…Sông dài, trời rộng, bến cô liêu Hai câu thơ đầu phảng phất một khung cành buồn thiu, đìu hiu và vắng lặng của một làng quê thiếu sức sống. Đó có phải là quê hương của tác giả hay không. Hình ảnh “cồn nhỏ” nghe rất rõ tiếng gió đìu hiu đến tái lòng ở ven dòng sông dường như khoác lên mình một nỗi buồn mặc định. Ngay cả một tiếng ồn ào của phiên chợ chiều ở nơi xa cũng không thể nghe thấy, hay có chăng phiên chợ ấy cũng buồn đến hiu quạnh như thế này. Một câu hỏi tu từ gợi lên bao nỗi niềm chất chứa, hỏi người hay là tác giả đang tự hỏi bản thân mình. Hai câu thơ cuối tác giả mượn hình ảnh trời và sông để đặc tả sự mênh mông vô đinh. Không phải trời “cao” mà là trời “sâu”, lấy chiều cao để đo chiều sâu thực sự là nét tài tình, tinh tế và độc đáo của Huy Cận. Hình ảnh sông nước mênh mông và một chữ “cô liêu” ở cuối đoạn dường như đã lột tả hết nỗi buồn sâu thẳm không biết ngỏ cùng ai ấy. Phân tích hai khổ thơ đầu bài Tràng giang đầy thi vị. Nhưng tới hai câu thơ cuối cùng chính là nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương của tác giả chẳng biết gủi vào đâu, chỉ biết chất chứa đong đầy trong trái tim. Câu thơ của Huy Cận khiến chúng ta liên tưởng đến tứ thơ của Thôi Hiệu Trên sông khói sóng cho buồn lòng aiLà sóng của sông hay là sóng trong lòng người Mời bạn tham khảo 🌠 Phân Tích Khổ 2 Tràng Giang 🌠 14 Bài Văn Mẫu Hay Nhất Phân Tích Khổ 1 2 Bài Tràng Giang Ngắn Gọn – Mẫu 6 Bài văn phân tích khổ 1 2 bài Tràng giang ngắn gọn dưới đây sẽ giúp các em học sinh tham khảo cách hành văn súc tích. Phong trào thơ mới chứng kiến sự đột phá của rất nhiều thi sĩ nổi tiếng với hàng ngàn tác phẩm tuyệt vời. Trong đó, chúng ta không thể bỏ qua tác phẩm “Tràng Giang” được sáng tác dưới ngòi bút của Huy Cận. Với sự kết hợp giữa yếu tố cổ điển và hiện đại, cùng câu từ đơn giản nhưng tinh tế tác giả thành công khắc họa hình ảnh mông mông của thiên nhiên hùng vĩ, qua đó cũng thể hiện nỗi niềm u buồn chất chứa, sự bế tắc của một kiếp người trôi nổi, lênh đênh giữa dòng đời. Nổi bật phải kể đến 2 khổ thơ đầu đã để lại trong lòng người đọc nhiều nỗi niềm khó tả. Bước vào bài thơ, khổ thơ đầu tiên nhà thơ đã cho người đọc thấy được một con sông chất chứa bao nhiêu nỗi buồn sâu thẳm “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệpCon thuyền xuôi mái nước song songThuyền về nước lại sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy dòng” Một loạt từ ngữ “buồn”, “xuôi mái”, “sầu trăm ngả”, “lạc mấy dòng” gợi cảm giác thê lương cùng từ láy “điệp điệp”, “song song” càng làm nỗi buồn trở nên mênh mông vô tận của tác giả trong thời thế có nhiều bất công. Tác giả mượn hình ảnh con thuyền xuôi mái và đặc biệt là hình ảnh “củi khô” trôi một mình để người đọc thấy rõ sự đơn độc. Nét chấm phá cổ điển xen lẫn nét hiện đại được thể hiện rõ nét, gợi tả câu thơ đầy ám ảnh với một dòng sông dài, mang nét đẹp trầm tĩnh, u buồn khiến người đọc cảm thấy thật thê lương. Theo quy luật thì thuyền và nước là hai thứ không thể nào tách rời nhau, thuyền nhờ nước mới có thể trôi. Thế nhưng trong câu thơ tác giả viết “thuyền về nước lại sầu trăm ngả”, câu thơ là một uẩn khúc hay là một sự chia lìa không hề báo trước? Dù là ý nghĩa nào thì người nghe cũng cảm thấy quạnh lòng xót xa. Trong khung cảnh mênh mông sông nước có một nỗi buồn đến tận cùng. Hình ảnh “củi khô” xuất hiện cuối câu thơ là điểm nhấn của khổ thơ gợi lên sự bé nhỏ, mỏng manh, đơn chiếc, trôi dạt khắp nơi mặc cho dòng nước đưa đẩy. Câu thơ như muốn nói về một kiếp người đa tài nhưng vẫn long đong, lận đận giữa cuộc sống với bộn bề lo toan, tính toán. Dường như nỗi hiu quạnh đó được Huy Cận tăng lên gấp bội trong khổ thơ thứ 2 “Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiuĐâu tiếng làng xa vãn chợ chiềuNắng xuống trời lên sâu chót vótSông dài, trời rộng, bến cô liêu” Một làng quê thiếu sức sống hiện lên với cồn cỏ lơ thơ, hiu quạnh trước gió, khiến người đọc không khỏi nặng lòng khi nghĩ đến. Ngay cả phiên chợ chiều vốn nơi xa cũng không thể nghe thấy tiếng ồn ào, hay có khi nào phiên chợ đó cũng vắng lặng đến buồn hiu. Từ “đâu” cất lên thật thê lương và không điểm tựa để bấu víu, nó là một câu hỏi tu từ gợi lên bao nỗi niềm chất chứa. Chẳng biết là tác giả đang hỏi người hay là đang tự hỏi bản thân mình. Khung cảnh hoang sơ, tiêu điều nơi bến nước không tiếng động, không bóng người sao thật chua xót quá. Sự mênh mông vô định của thiên nhiên được tác giả đặc tả bằng hình ảnh trời và sông. Không phải trời “cao” mà là trời “sâu”, lúc này chúng ta có thể thấy được nét tài tình và độc đáo cả thi sĩ khi lấy chiều cao để đo chiều sâu. Giữ không gian sông nước mênh mông và tác giả kết thúc đoạn thơ bằng một chữ “cô liêu” dường như đã lột tả hết nỗi buồn rầu, cô đơn từ sâu thẳm tâm hồn mà không biết ngỏ cùng ai. Khép lại hai khổ thơ đầu ta như thấy được giữa khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ, nỗi sầu nhân thế của tác giả dừng như chiếm trọn tâm trí. Có lẽ đó chính là lý do tại sao dù ra đời đã lâu nhưng Tràng Giang vẫn không bị bụi thời gian phủ mờ nó vẫn còn sáng mãi trong lòng bạn đọc yêu thơ nhiều thế hệ. Đón đọc tuyển tập 🌼 Cảm Nhận 2 Khổ Thơ Đầu Bài Tràng Giang 🌼 Văn Mẫu Tuyển Chọn Phân Tích Bài Thơ Tràng Giang 2 Khổ Đầu Ngắn Nhất – Mẫu 7 Chia sẻ dưới đây bài văn mẫu phân tích bài thơ Tràng giang 2 khổ đầu ngắn nhất để các em học sinh cùng tham khảo. Huy Cận là 1 trong những tác giả tiêu biểu trong phong trào thơ mới. Thơ Huy Cận vừa có chất cổ điển vừa giàu chất suy tưởng của triết lý. “Tràng giang” thể hiện nỗi sầu của cái tôi trước” thiên nhiên mênh mông, hiu quạnh trong đó thấm đượm tấm lòng đối vs quê hương đất nước của thi sĩ. “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,…Củi một cành khô lạc mấy dòng” Khổ thơ trên là khổ thứ nhất trong bài “Tràng giang”. Nghệ thuật đối có nhiều đổi mới, khiến cho một mặt nó vẫn phát huy được thế mạnh của loại thơ cổ, tạo được vẻ đẹp cân xứng, không khí trang trọng. Mặt khác, nó làm cho giọng điệu của bài thơ uyển chuyển, linh hoạt, tránh được sự khuôn sáo, cứng nhắc dễ thấy đối với một số bài thơ Đường luật hồi đầu thế kỉ. Hình ảnh bèo trôi dạt trên sông nối tiếp ý nghĩa của cành củi khô trong khổ thơ đầu, đó là sự trôi dạt không biết về đâu của những kiếp người nhỏ nhoi, lạc loài trong chính cuộc đời mình. Từ “không” xuất hiện 2 lần để khẳng định sự vô vọng từng khát khao gắn tìm chút liên kết của 1 con người. Không 1 con đò ngang dọc trên sông, không 1 cây cầu nối liền 2 bờ bến. Tất cả chỉ làm tăng thêm cái mênh mông lặng lẽ của công việc và cả sự trống trải lặng lẽ của cảnh vật. Vào những năm 30 của thế kỷ trước, đây là những câu thơ mới mẻ, bởi trong đó xuất hiện hình ảnh giản dị, “tầm thường” là “củi một cành khô”. Thơ xưa thường nói đến những hình ảnh cao sang mà giới “tao nhân, mặc khách” thường ưa thích như trăng hoa, tuyết nguyệt… Đến thời kì Thơ mới, những hình ảnh “bình dân” như “củi một cành khô”, “con nai vàng ngơ ngác”, con hổ “gặm một mối căm hờn trong cũi sắt” mới ào ạt xuất hiện, như là chỉ dấu về một “cuộc cách mạng trong thơ” Hoài Thanh. Họ đang không biết đi đâu về đâu, giống như cành củi khô giữa ngã ba dòng nước. Khổ thơ thứ hai, cũng là khổ thơ cuối cùng của bài thơ, hài hoà về nét cổ điển và hiện đại, được đánh giá là đặc sắc nhất trong kết cấu của bài thơ “Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,..Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.” Cùng với những hình ảnh vừa sang trọng vừa bình dân”, vừa rất truyền thống mà lại cũng vừa rất Tây ấy, ta bắt gặp thêm âm thanh của buổi chợ chiều đã vãn từ xa đưa tới “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều” Đoàn Văn Cừ đã đặc tả thành công cái vẻ đẹp Việt Nam đặc thù trong bài Chợ Tết nổi tiếng “Ánh dương vàng trên cỏ kéo lê thêLá đa rụng tơi bời quanh quán chợ”. Các từ “cao”, “sâu”, “rộng”, “dài” được sử dụng như một hệ thống để diễn tả không gian rộng lớn bao la. Đặc biệt, cách dùng từ đảo nghĩa và đối nghĩa giữa “lên” và “xuống”, giữa “cao” và “sâu” khiến người đọc có cảm giác bị choáng ngợp. Đây là một hình ảnh đẹp, chứa đựng biết bao yêu mến của nhà thơ đối với thiên nhiên xứ sở. Giữa tầng tầng lớp lớp mây núi chồng chất ấy, nổi bật hình ảnh một cánh chim nhỏ đang sa xuống. Đôi cánh lấp lánh hoàng hôn khiến nó trông như 1 giọt nắng từ trên trời rơi xuống. 2 câu thơ cuối được lấy từ 2 câu kết của Hoàng Hạc Lâu nhưng người xưa phải nhờ có khói trắng trên sông mới thấy nhớ nhà. Còn Huy Cận chẳng cần có chút “yên ba” nào cũng thấy nhớ nhà da diết. Nỗi sầu hiện đại lớn hơn so với cổ nhân. Câu thơ gợi tả hình ảnh sóng gió tràng giang dường như chỉ còn gập ghềnh 1 chỗ. Hai khổ thơ trên sử dụng thể thơ thất ngôn rất hợp lý. Hiệu quả cùng với sự kết hợp của các từ láy, biện pháp tu từ, thủ pháp nghệ thuật tương phản đã làm nổi bật lên nỗi sầu của cái tôi cô đơn trước thiên nhiên, trong đó thấm đượm tình người, tình đời, lòng yêu nước thầm kín mà thiết tha. Tràng giang là bài thơ tiêu biểu cho phong trào thơ mới, không chỉ miêu tả quang cảnh quê hương đất nước mà còn thể hiện 1 tình yêu nước sâu nặng cùng nỗi buồn cô đơn, bơ vơ của con người ngay trên chính quê hương mình. Chia sẻ thêm cùng bạn 🍀 Phân Tích Khổ 3 Tràng Giang 🍀 15 Bài Văn Hay Nhất Phân Tích 2 Khổ Đầu Bài Tràng Giang Siêu Ngắn – Mẫu 8 Với bài văn phân tích 2 khổ đầu bài Tràng giang siêu ngắn dưới đây, các em học sinh có thể dễ dàng chuẩn bị cho bài viết trên lớp. Huy Cận tưởng như đã đem hồn thơ với nỗi buồn thiên cổ đầy sầu mộng của mình để lượm lặt những nỗi buồn nhân thế mà đem vào trang thơ. Tràng Giang có thể nói là bài thơ thể hiện rõ nhất điệu hồn ấy của phong cách thơ Huy Cận. Đặc biệt hai khổ đầu bài thơ, là những nét vẽ vừa đẹp vừa thấm đẫm chút buồn man mác phủ lên toàn bộ cảnh vật. “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệpCon thuyền xuôi mái nước song song,Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;Củi một cành khô lạc mấy dòng” Nỗi ám ảnh thời gian luôn vận động theo quy luật tuyến tính, một đi không trở lại đã khiến Xuân Diệu luôn vội vàng, cuống quýt trong từng nhịp điệu sống. Còn nỗi ám ảnh không gian đã mang vào trong thơ Huy Cận những thế giới rộng lớn, mênh mông sầu mộng của thi sĩ. Ở Tràng Giang cũng không phải là ngoại lệ, mở đầu bài thơ là hình ảnh sông dài với những đợt sóng buồn điệp điệp nối đuôi nhau. Cái hay ở đây, là cách nhà thơ dùng từ “tràng giang” để gọi nó, nó gợi màu sắc cổ điển, vì thế con sông trong thơ Huy Cận dường như gọi về bao nhiêu nỗi niềm xưa, bao nhiêu dấu rêu phong, bao nhiêu những con sông hoàng hà cổ đại, từ đó chảy trên dòng thời gian bất tận để đưa người đọc xuôi dòng về hiện thực. Thuyền và nước, nỗi niềm của sự chia rẽ được thể hiện rất rõ trong nỗi sầu ở câu thơ thứ ba. Nỗi sầu của dòng sông, nỗi buồn man mác của dòng chảy bất tận về muôn ngã rẽ, mang theo nỗi lòng của mình để hướng về muôn nơi, sự chia cắt của thuyền và nước, tưởng như là sự chia cắt của lòng người khiến cho sự vật cũng như tan tác, chia li. Câu thơ thứ tư, mới thực là sự đắc địa và cẩn trọng trong cách chọn từ của Huy Cận. Củi, đã là sự vật gợi sự khô héo, tàn lụi, thậm chí là mất dần sự sống. Tiếp đến, lượng từ “một’ gợi sự đơn lẻ đơn độc và lạnh lẽo trên dòng sông bất tật, thế nhưng không chỉ một mình, đơn độc mà cành củi ấy còn vô phương vô định lưu lạc về chân trời nào. Ở đây có thể thấy, Huy Cận đã đưa vào trong thơ những chất liệu từ đời thực, những chất liệu sống để diễn tả một cách chân thực, mộc mạc nhất sự cô đơn, mất phương hướng thậm chí là bế tắc của chính tác giả, hay của những cái tôi thơ Mới lúc bấy giờ. Nếu trong Tràng Giang, Huy Cận mượn cành củi khô để diễn tả tình cảnh lưu lạc, hoang hoải trong tâm hồn của những cái tôi thơ mới, thì Xuân Diệu cũng từng viết “Tôi là con nai bị chiều đánh lướiKhông biết đi đâu đứng sầu bóng tối”. Rõ ràng, Huy Cận đã đưa vào thơ một cách trần trụi rất riêng những chất liệu của đời sống. “Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,Đâu tiếng làng xa vãn chợ xuống, trời lên sâu chót vót;Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.” Thiên nhiên một lần nữa xuất hiện trong thơ nhưng chỉ là những cảnh vật gợi sự khô héo, đìu hiu tàn lụi. Những cồn nhỏ như đang nương vào cơn gió để khe khẽ kể về nỗi buồn của mình. Và ngọn gió, dường như cũng mang trong nó nỗi buồn man mác của cảnh vật mà hồn thơ âu sầu ảo não của Huy Cận đã họa thành. Tiếp đến, chợ vốn là là hình ảnh của không gian sống, là biểu tượng của cuộc sống nhộn nhịp, đông đúc. Nhưng chợ ở đây, cũng là chợ chiều đã vãn. Cảnh vật héo buồn, sinh hoạt và cuộc sống của con người cũng đi dần vào thế nghỉ ngơi, vào sự buồn bã hiu quạnh. Hai câu thơ cuối có thể nói là tuyệt bút nên thơ của Huy Cận, cách dùng từ độc đáo của thi nhân đã lột tả một cách chính xác cảm giác của nhân vật trữ tình khi đứng trước thiên nhiên rộng lớn. Những chuyển động đối lập nhau lên-xuống cùng với cách tạo vế đối nắng xuống, trời lên tạo cảm giác như một chiếc tù giam lỏng dồn nén con người ở giữa cảm thấy ngột ngạt, bí bách và chán chường trong sự vận động xoay guồng của tạo hóa. Sâu chót vót là cụm từ độc đáo, vừa diễn tả độ sâu, vừa diễn tả độ cao, vừa tạo cảm giác mở về sự cảm nhận của người đọc. Và rồi tiếp nối mạch cảm xúc ấy, là cảm giác cô liêu, cô đơn đến cùng cực của con người giữa sông dài trời rộng, giữa sự vô tận. Chỉ với 8 câu thơ, Huy Cận đã yểm vào đó linh hồn cho từng câu chữ, để bắt cảnh vật sống dậy với chất buồn thấm đẫm trong từng thớ vỏ, đồng thời tạo nên cảm giác âu sầu ảo não vốn rất đặc trưng trong thế giới thơ Huy Cận. Gợi ý cho bạn 🌳 Phân Tích Khổ 4 Tràng Giang 🌳 14 Bài Văn Mẫu Hay Nhất Phân Tích 2 Khổ Thơ Đầu Tràng Giang Chi Tiết – Mẫu 9 Tham khảo bài văn phân tích 2 khổ thơ đầu Tràng giang chi tiết dưới đây để nắm vững nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ. “Trên cánh đồng văn chương màu mỡ người nghệ sĩ như những hạt cát bụi bay lượn trong không khí để tìm cho mình những dư vị còn lại”. Với Huy Cận ông tìm về nơi lặng tờ của quê hương, xứ sở đó là dòng sông Hồng đỏ nặng phù sa, nguồn cảm hứng của ông được khơi nguồn từ đó và đọng lại ở “Tràng Giang” điều đó được thể hiện trong hai đoạn thơ đầu của bài thơ. “Thơ là tiếng nói của tình cảm và cảm xúc. Nếu không có cảm xúc thì người nghệ sĩ không thể sáng tạo nên những vần thơ hay ngôn từ cũng chỉ là xác chữ nằm thẳng đơ trên trang giấy”. Trước hết thi sĩ phải là người có tâm hồn, giàu rung cảm,cảm thông sâu sắc trọn vẹn với khoảnh khắc của cuộc đời thì cảm xúc mãnh liệt mới dạt dào được. Chính những cảm xúc đó đã thôi thúc tác giả sáng tác về quê hương với hình ảnh thiên nhiên quen thuộc. Huy Cận với những rung cảm, ông đã chuyển hóa thành cảm xúc mà viết thành thơ. Và Tràng giang là một trong những tác phẩm sắc của ông, bài thơ được gợi cảm xúc và một buổi chiều năm 1939 tác giả đứng ở bên bờ Nam Bến Tràng, trước cảnh sông Hồng mênh mang sông nước, những cảm xúc thời đại đã dồn về, thi sĩ thấy cái tôi của mình quá nhỏ bé với vũ trụ bao la. Nên ông đã viết bài thơ này, và hai khổ thơ đầu của bài thơ là cảnh sông Hồng mênh mang là những nỗi buồn vạn cổ của thi sĩ trước cảnh vật “Sóng gợn Tràng Giang buồn điệp điệpCon thuyền xuôi mái nước song songThuyền về nước lại sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy dòngLơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiuĐâu tiếng Làng xa vãn chợ chiềuNắng xuống trời lên sâu chót vótSông dài trời rộng bến cô liêu” Mở đầu là cảnh sông Hồng mênh mang sóng nước, ở khổ thơ đầu tác giả sử dụng một loạt các từ “thuyền, nước” là các từ mà nhà thơ xưa hay dùng để miêu tả cảnh thiên nhiên đẹp đẽ. Đây như là một bức tranh thủy mặc, đầy đủ cảnh sông nước lãng mạn, tĩnh lặng êm đềm nhưng lại buồn đến tê tái. Nói về nỗi buồn ấy, Hoài Thanh đã nhận xét “thiên nhiên trong thơ mới đẹp nhưng lại thấm đượm Nỗi buồn da diết bâng Khuâng”. Nỗi buồn đó lại được Huy Cận lý giải rằng “chúng tôi lúc đó có một nỗi buồn thế hệ, nỗi buồn không tìm được lối ra nên kéo dài triền miên”. Đó là nỗi buồn của những con người sống trong cảnh nước mất nhà tan, có lẽ thế nên trong dòng Tràng Giang chỉ có một giải buồn bát ngát “Sóng gợn Tràng Giang buồn điệp điệpCon thuyền xuôi mái nước song song” Từ “điệp điệp” là gợi tả những con sóng gợn lên hết lớp này đến lớp khác, triền miên vô tận. Buồn điệp điệp miêu tả cái buồn thiên nhiên nhưng thực chất nó đang diễn tả một nỗi buồn của thi nhân, đang gợn lên theo từng đợt sóng. Những con sóng vỗ vào bờ. Thuyền và nước là hai cảnh vật luôn đi cùng nhau gắn bó với nhau không bao giờ xa cách, vậy mà trong mắt Huy Cận nó trở nên bơ vơ lạc lõng. Từ đó mà nỗi sầu của nhà thơ lan tỏa ra vũ trụ “sầu trăm ngả” ở đây không gian vừa được mở ra về chiều rộng, vừa vươn lên theo chiều dài. Vì vậy hình ảnh này khiến ta liên tưởng đến hai câu thơ trong bài “trăng cao” của Đỗ Phủ “Vô biên niên mộng tiêu tiêu hạBất tận Trường Giang cổ cổ lai” Thuyền là hiện diện của sự sống con người nhưng rồi sự xuất hiện ấy cũng chỉ lướt qua trong chốc lát, sau đó nó lại nép mình vào bến bờ. Trả lại sự bình yên, nhìn luồng sóng “Con thuyền xuôi mái” Đây là một sự liên tưởng đến sự lạc lõng kiếp sống trôi nổi, phải chăng tác giả cũng từng sống trong hoàn cảnh ấy. “Thuyền về nước lại sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy dòng” Ở hai câu thơ này Huy Cận đã sử dụng phép đối hết sức táo bạo. Chỉ đối ý, đối hình mà câu thơ vẫn cân xứng hài hòa con thuyền và cành củi khô đang cùng trôi nổi trên dòng Trường Giang. Trong thơ của Huy Cận đã nói nhiều đến nỗi sầu vạn cổ, buồn thiên thu. Đến bài thơ này ta lại bắt gặp một cái xấu nữa “sầu trăm ngả” không chỉ với ba từ ây thôi ta đã thấy sầu của thi sĩ trải dài khắp cảnh vật nơi đây. Nếu trong thơ Xưa thi sĩ thường dùng các chất liệu tùng cúc trúc mai, làm chất liệu sáng tác thì ở đây Huy Cận lại đưa vào trong thơ một hình ảnh rất đỗi bình thường và quen thuộc “Củi khô” nhận xét về cành Củi khô đó Nguyễn Đăng Mạnh đã viết “lần đầu tiên trong lịch sử thơ ca nhân loại có một cành củi khô trôi dạt giữa dòng trong thơ Huy Cận”. Như nỗi buồn của kiếp người trong xã hội cũ, khổ thơ này được xem là khổ thơ đặc sắc nhất của bài thơ, vì ở đây mang âm điệu buồn tê tái, khám phá được ở đó là cảnh vật thiên nhiên tràn ngập nỗi buồn, da diết… cảnh trời rộng sông dài ở đây diễn tả sự mênh mang, trống rỗng thể hiện nỗi buồn triền miên của Huy Cận và cảnh sông Hồng. Tiếp với nỗi sầu vạn cổ, buồn thiên thu ấy, nỗi buồn được nhân lên gấp bội. Bức tranh sông nước được vẽ thêm đất, thêm làng nhưng vẫn buồn đến tê tái, nỗi buồn ấy được gợi tả từ những cồn nhỏ, thêm vào đó là sự hiu hắt thổi nhẹ của gió, sự tĩnh lặng vắng vẻ của cảnh vật, “Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiuĐâu tiếng làng xa vãn chợ chiều” Huy Cận nói ông đã được đọc hai chữ đìu hiu ấy từ Chinh Phụ Ngâm “Non kì quạnh quẽ trăng treoBên Phi gió thổi đìu hiu mấy gò” Cảnh sắc trong Chinh Phụ Ngâm đã vắng lặng, hiu hắt nhưng cảnh trong Tràng Giang lại vắng vẻ hiu hắt hơn. Từ láy lơ thơ diễn tả sự thưa thớt, rời rạc của những cồn nhỏ mọc lên giữa lòng trắng xanh thể hiện nỗi buồn man mác theo gió nhẹ thấm lên từng cảnh vật, nhà thơ muốn tìm đến hơi ấm của con người để xua bớt đi cái lạnh lẽo, hiu quạnh ở đây nhưng “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều” Tiếng chợ ở đâu không xác định được, từ xưa Nguyễn Trãi đã dùng vẻ âm thanh ấy trong bài Cảnh Ngày Hè “Lao xao chợ cá làng Ngư PhủDắng dỏi Cầm ve lầu tịch dương” Âm thanh của tiếng chợ vãn đã mất dần và không xác định được. Như vậy nhà Thơ lấy động tả tĩnh để miêu tả nỗi buồn sâu lắng của thi sĩ, hai câu thơ tiếp của khổ thơ bức tranh vô biên của Tràng Giang đã đạt đến sự khôn cùng “Nắng xuống trời lên sâu chót vótSông dài trời rộng bến cô liêu” Đến đây Huy Cận miêu tả không gian ba chiều giữa cảnh và người, thi sĩ như một vật nhỏ bé chơi vơi giữa bến đò với những vạt nắng trên bầu trời chiếu xuống mặt đất trong xanh, khiến ta liên tưởng đến bầu trời xanh được đẩy lên cao hơn, xa hơn. Ở đây tác giả không dùng chữ “cao chót vót” mà lại dùng “sâu” để diễn tả độ cao của trời xanh, từ đó cho chúng ta thấy rằng đứng trước cảnh vật ấy con người càng lạc lõng nhỏ bé cô đơn đến tột cùng. Chính sự lạc lõng ấy đã tạo nên cho hai khổ thơ này một nỗi buồn tê tái, mang đậm cảm xúc tình cảm của thi sĩ, và nỗi buồn ấy ẩn chứa nỗi sầu vạn cổ, buồn thiên thu của tác giả. Thành công của hai khổ thơ chính là sự sáng tạo nghệ thuật, sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại. Sử dụng nhiều thi liệu trong thơ cổ, từ ngữ giản dị, giàu hình ảnh. Góp lại những trang thơ của Huy Cận ta không khỏi quên được nỗi buồn tê tái của thi sĩ trước cảnh vật, cảnh nước mất nhà tan. Bài thơ vừa mang đậm phong cách của Huy Cận, vừa là một dấu son chói lọi trong nền thơ ca Việt Nam và trong lòng bạn đọc. tặng bạn 💧 Phân Tích Khổ Cuối Bài Tràng Giang 💧 Hay Nhất Phân Tích Hai Khổ Đầu Bài Tràng Giang Đầy Đủ – Mẫu 10 Bài văn phân tích hai khổ đầu bài Tràng giang đầy đủ dưới đây sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích dành cho các em học sinh. Huy Cận là một tác giả nổi tiếng của làng thơ Mới, trong đó ông được biết đến với một hồn thơ “cổ điển nhất”. Ông đã từng tâm sự “Trước Cách mạng, tôi thường có thú vui vào chiều chủ nhật hàng tuần đi lên vùng đê Chèm để ngoạn cảnh sông Hồng. Phong cảnh sông nước đẹp gợi cho tôi nhiều cảm xúc.” Và bài thơ Tràng giang đã được ra đời vào một chiều lãng mạn như vậy của Huy Cận, tác phẩm được in trong tập Lửa Thiêng 1940. Không chỉ có cảnh đẹp của thiên nhiên đất nước, Tràng giang còn chứa đựng tâm trạng, nỗi niềm sâu kín của người thi sĩ. Điều đó được thể hiện rất rõ qua 2 khổ thơ đầu bài Tràng giang. Thơ là một thể loại mang nhiều ý tứ vì vậy người viết thơ ít bao giờ thể hiện ngay những suy tư của mình trên bề mặt con chữ mà họ thường mượn cảnh thiên nhiên để ngụ tình, sau đó chắt lọc qua từng từ ngữ. Bởi vậy muốn hiểu hết dụng ý của nhà thơ, người đọc phải thật chậm rãi “tháo từng lớp vỏ”, có như vậy mới chạm đến được tầng sâu nhất mà không khiến nó bị “trầy xước” hay “vỡ bể”. Huy Cận cũng không ngoại lệ, mở đầu bài thơ ông đã sử dụng những hình ảnh quen thuộc con thuyền, dòng sông để qua đó thể hiện cảm xúc của mình “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,Con thuyền xuôi mái nước song song.” Lặp lại vần “ang” trong “tràng giang”, tác giả cho thấy một không gian trải dài, rợn ngợp, đây cũng là điểm nổi bật cho phong cách thơ của Huy Cận. Ngay sau đó tâm trạng của nhà thơ được mở ra với “buồn điệp điệp”. Nỗi buồn bây giờ không phải một cái gì đó mông lung, mơ hồ mà đã được cụ thể hóa, nó như từng đợt sóng đang gối vào nhau trào dâng, cứ thế không ngớt vỗ vào bờ. Đọc câu thơ, ta biết được nỗi buồn ấy chẳng dấy lên trong thời gian ngắn mà âm ỉ kéo dài, tựa như sẽ tồn tại vĩnh cửu. Từ song song” trong câu thơ sau gợi nên hình ảnh hai vật, hai thế giới nằm cạnh nhau nhưng không bao giờ có sự va chạm, có sự gần gũi nhưng chẳng bao giờ gặp gỡ. Ở đây tác giả như muốn nhấn mạnh sự đơn lẻ, cô độc của con thuyền trên dòng sông đồng thời cũng chính là sự cô đơn của con người bên dòng đời. Từ trước đến nay, thuyền và nước là hai sự vật luôn gắn bó mật thiết hế nhưng trong Tràng giang của Huy Cận chúng lại hờ hững tách rời nhau “Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;Củi một cành khô lạc mấy dòng.” “Thuyền về” nhưng “nước lại”, hoạt động trái chiều, lạc nhịp này gợi nên sự xa cách để từ đó mang lại cảm giác cô đơn, mất mát “sầu trăm ngả”, nhìn ở đâu cũng chỉ thấy buồn bã, sầu thương. Có thể nói rằng trung tâm của khổ thơ đầu chính là câu “củi một cành khô lạc mấy dòng” và củi một cành khô” là hình ảnh độc đáo bởi trong thơ ca xưa nay, nhất là thơ trung đại khi chất liệu thơ được đưa vào đều phải được gọt giũa, chọn lọc như tùng, cúc, trúc, mai chứ ít có sự vật đời thường, giản dị như củi khô. Bên cạnh đó tác giả đã dùng biện pháp đảo ngữ và chắt lọc các từ đơn làm cho câu thơ như bị gãy gập, rời rạc, mất đi sự liên kết. Từ “lạc” ở đây được sử dụng rất đắt, nó cho ta thấy đâu đó một thân phận đơn chiếc bị đẩy đưa ngoài ý muốn, bơ vơ giữa bao dòng nước xiết không biết trôi về nơi đâu. Hình ảnh đặc biệt này chính là ẩn dụ cho số kiếp lênh đênh, lạc lõng của con người giữa nhân gian rộng lớn, để từ đó nỗi buồn cứ trùng điệp chồng chất. Sang đến khổ thơ thứ hai, tầm nhìn của thi sĩ đã vượt xa khỏi những gì trước mắt để một không gian hoang vắng, tiêu điều từ từ xuất hiện “Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều. Đọc những câu thơ này của Huy Cận, ta nhớ đến khung cảnh vắng lặng tương tự trong Chinh Phụ ngâm “Non kì quạnh quẽ trăng treo,Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò.” Ngọn gió đìu hiu này đã vượt không gian và thời gian, xuất hiện thêm một lần nữa để làm buồn lòng người thi sĩ. Từ láy “lơ thơ” được tác giả đưa lên đầu câu nhằm nhấn mạnh sự thưa thớt, rời rạc của cảnh vật, có mấy hòn đất nhỏ mọc trên dòng “Tràng giang” và trên những hòn đất ấy là những lau và sậy mỗi khi có cơn gió thổi qua ngả nghiêng tách rời, tiêu điều hiu hắt. Qua câu thơ tiếp theo, ta bắt gặp được một không gian mang “hơi người” là chợ, chợ gợi nên bao tiếng mua bán nhộn nhịp, là biểu trưng cho đời sống kinh tế của một vùng thế nhưng ở đây chợ cũng chỉ ở đâu đó vang vọng không rõ, sự sống đã đi vào thế tĩnh, không còn xô bồ nhộn nhịp, thể hiện qua từ “vãn”. Nguyễn Trãi cũng đã từng viết về chợ nhưng chợ của ông lại náo nhiệt và đông đúc “Lao xao chợ cá làng ngư phủ.” Câu thơ của Huy Cận buồn nhưng tinh tế, ông đã khéo léo lấy cái động để nói cái tĩnh, miêu tả tiếng chợ vãn chiều để gợi lên sự vắng lặng của không gian, qua đây nhà thơ muốn bộc lộ mong muốn được giao hòa, giao cảm với con người dù chỉ bằng thính giác. Tìm người người chẳng thấy, tác giả tiếp tục gửi gắm tâm vào thiên nhiên cảnh vật để thơ buồn càng buồn hơn “Nắng xuống trời lên sâu chót vót,Sông dài trời rộng bến cô liêu.” Không gian đến đây đã được tác giả mở rộng ra ba chiều là chiều cao, chiều rộng, chiều dài và thậm chí có cả độ sâu. Theo cách diễn đạt thông thường người ta thường nói “cao chót vót” thế nhưng Huy Cận lại dùng “sâu chót vót”, ông đã lấy chiều cao để đo chiều sâu, một điều chưa từng có tiền lệ để người đọc phải ngạc nhiên rằng thật tinh tế và độc đáo. Trong cái bao la, vô tận của vũ trụ là hình ảnh nhỏ bé, cô độc của con người, nhân vật trữ tình ở đây như bị cuốn sâu vào cõi đời hun hút, bị rợn ngợp trước không gian vô cùng tận. Dù không có từ ngữ nào nhắc đến con người ở đây nhưng ta vẫn có thể cảm nhận được đó là một cá thể nhỏ bé, cô độc, lẻ loi đến tội nghiệp. Hai chữ “cô liêu” cuối đoạn thơ được viết ra với âm hưởng man mác một lần nữa gợi lên nỗi buồn nhân thế, rằng sự sống quá nhỏ nhoi và hữu hạn còn vũ trụ thì vô biên, không ngừng mở rộng đến vô cùng. Nỗi buồn của con người đã lan tỏa khắp không gian, bao trùm lên mọi cảnh vật. Nếu khổ thơ thứ nhất là “cái nhấp nháy” cho nỗi buồn thì đến khổ thơ thứ hai này tâm tư của thi sĩ đã được bộc lộ rõ hơn, sâu sắc hơn. Đó không phải là nỗi buồn của cá nhân Huy Cận mà là cảm xúc chung của cả một thế hệ, đặc biệt là giới văn nghệ sĩ đầu thế kỉ XX. Tràng giang là bài thơ có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa bút pháp cổ điển và hiện đại. Trong đó cái cổ điển được thể hiện ở thể thơ, cách đặt nhan đề và việc sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình. Còn hiện đại là ở chỗ xây dựng thi liệu và cách dùng từ mới lạ như “sâu chót vót”. Chỉ với hai khổ thơ đầu của bài, ta đã thấy được tài năng của Huy Cận qua cách chọn lọc từ ngữ vô cùng đắt giá và cách ngắt nhịp thơ hiệu quả. Qua 2 khổ thơ đầu bài Tràng giang, ta cảm nhận được cả buồn và đẹp, chúng hòa quyện vào nhau, tạo nên những xúc cảm khó nói thành lời. Chắc chắn rằng tác phẩm này của Huy Cận sẽ sáng mãi trong lòng những người yêu thơ ca dù thời gian có trôi, dòng đời không thôi xô bồ, vội vã. Có thể bạn sẽ thích 🌼 Phân Tích 2 Khổ Cuối Bài Tràng Giang 🌼 13 Mẫu Khổ 3 4 Hay Phân Tích Tràng Giang 2 Khổ Đầu Nâng Cao – Mẫu 11 Tham khảo bài văn phân tích Tràng giang 2 khổ đầu nâng cao dưới đây với những nội dung nghị luận văn học chuyên sâu. Cù Huy Cận 1919-2005, bút danh Huy Cận là một trong những đại biểu xuất sắc nhất của phong trào thơ Mới, đồng thời cũng là một nhà thơ có nhiều đóng góp to lớn cho nền văn học Việt Nam xuyên suốt qua từng giai đoạn lịch sử của dân tộc. Trước cách mạng tháng 8, thơ Huy Cận thường mang một nỗi sầu bi da diết, vô tận, bao trùm trong trời đất mà người ta vẫn nói đùa rằng lúc mang thai ông hẳn mẹ ông đã phải rơi lệ nhiều nên con trai bà mới có một tâm hồn sầu não, ảm đạm như thế. Tràng Giang là một trong những bài thơ nổi bật nhất trong phong trào thơ Mới, đồng thời cũng là sáng tác tiêu biểu và xuất sắc nhất đại diện cho phong cách sáng tác của Huy Cận giai đoạn này. Bài thơ nhuốm màu cổ điển của thơ Đường đồng thời cũng mang những nét hiện đại, lãng mạn của thơ Pháp thể hiện sâu kín nỗi buồn, nỗi cô đơn, lạc lõng của con người trước thế sự khi bản thân tác giả đang bế tắc trước viễn cảnh đất nước đau thương. Nhan đề “Tràng giang”, là một nhan đề hay khi gợi mở ra không gian rộng lớn bằng cách điệp vần “ang”, tạo cảm giác kéo dài, âm thanh vang vọng, thoát xa trong trời đất, đồng thời nhan đề hán việt này cũng mang đến cho tác phẩm sắc thái cổ kính, trầm lặng, chất chứa nhiều tâm tư, nỗi buồn sâu kín. Lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”, gợi ra cảm xúc chủ đạo trong bài thơ là nỗi bâng khuâng, buồn bã, chất chứa nhiều tâm sự của con người khi đứng trước một vùng trời sông nước quá đỗi rộng lớn, mà con người lại chỉ như hạt cát nhỏ, lạc lõng, chơ vơ, không biết phải đi đâu về đâu, không biết bản thân tồn tại, trong trời đất này có nghĩa lý gì. Điều đó khiến ta liên tưởng đến hoàn cảnh đầy đau thương của đất nước lúc bấy giờ, Huy Cận bản thân là một trí thức tiểu tư sản, nhưng trước thế sự rối ren lại trở nên bế tắc, không thể tìm thấy con đường sáng, và khi đứng trước sông nước mênh mông, ông lại càng cảm thấy cô đơn, lạc lõng. Điều đó thực đúng với câu “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, khi mà cổ nhân tìm về với thiên nhiên để tìm sự đồng điệu, giao cảm, thì Huy Cận lại lấy thiên nhiên mà bộc lộ những nỗi niềm sâu kín, đem đến cho người đọc những rung cảm mới mẻ, hấp dẫn. “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệpCon thuyền xuôi mái nước song songThuyền về nước lại sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy dòng” Ở khổ thơ đầu tiên ta thấy mở ra là hình ảnh một bức tranh sông nước buồn vắng và ảm đạm, vẻ đẹp cổ điển của bài thơ cũng được thể hiện một cách rõ nét. Hình ảnh “tràng giang” tức là một con sông vừa rộng lại vừa dài, tưởng chừng như kéo dài đến vô tận, thế nhưng lòng sông lại hết sức yên tĩnh, dòng sông lớn thế mà sóng chỉ gợn nhẹ, mang đến cảm giác phẳng lặng, hiu hắt tựa như cảnh “dòng nước buồn thiu” của Hàn Mặc Tử. Không chỉ vậy cái buồn còn được bộc lộ một cách trực tiếp và rõ ràng trong mấy từ “buồn điệp điệp”, tức là cái buồn nỗi buồn, chồng chất lên nhau lẫn vào từng gợn sóng lăn tăn của dòng sông một cách ẩn nhẫn, âm thầm, trông có vẻ mờ nhạt nhưng thực tế lại sâu sắc vô cùng. Hình ảnh “Con thuyền xuôi mái nước song song/Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”, đó là một cảnh tượng gợi ra nhiều nỗi cô đơn, thuyền qua thuyền lại biết bao lần, nhưng chưa chắc một lần thuyền hiểu được nỗi lòng sông, nỗi lòng con nước. Vốn dĩ thuyền – nước hô ứng, phối hợp với nhau ấy nhưng khi vào thơ Huy Cận dường như chúng lại chẳng giao hòa, cứ song song với nhau, rồi “thuyền về nước lại” càng gợi sự chia lìa, xa cách, nghe não lòng, đau xót. Thêm nữa từng con thuyền ấy lại vướng biết bao nỗi sầu, và dường như nó còn chuyên chở cả nỗi sầu mênh mông của người, của cảnh đi khắp trăm ngả, không dừng đợi. Câu cuối đoạn “Củi một cành khô lạc mấy dòng”, chính là tâm sự, là nỗi niềm, là thân phận của tác giả. Giữa mênh mông sóng nước như thế, lại chỉ có một nhánh củi khô nhẹ bẫng, trơ trọi, đơn độc lênh đênh không biết trôi dạt về đâu. Cũng như chính Huy Cận hoang mang, lạc lõng trước thời cuộc, không có tiếng nói, sức ảnh hưởng, không biết rồi mai đây số phận đẩy đưa, thời thế đất nước sẽ ra sao, bất lực và bế tắc vô cùng. Bên cạnh vẻ đẹp hiện đại khi tác giả khéo léo bộc lộ cái tôi, nỗi buồn cá nhân trước thế sự, thì vẻ đẹp cổ điển còn được in đậm bằng các từ láy “điệp điệp”, “song song”, những từ hán việt “sầu”, “tràng giang” mang đến cho bức tranh thiên nhiên sông nước vẻ đẹp cổ kính, đượm buồn. “Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiuĐâu tiếng làng xa vãn chợ chiềuNắng xuống trời lên sâu chót vótSông dài trời rộng bến cô liêu” Sang đến khổ thơ thứ hai cảnh sông nước mênh mông đã được thay thế bằng một khung cảnh khác, không gian được thu hẹp hơn, thế nhưng dường như nỗi buồn lại càng trở nên đậm đặc hơn, bao trùm kín kẽ từng cảnh vật. Huy Cận tiếp tục sử dụng bút pháp quen thuộc trong Đường thi khi sử dụng các từ láy vần liên tiếp “lơ thơ”, “đìu hiu”, “chót vót”, diễn tả trọn vẹn được sự cô quạnh, hoang vắng của cảnh vật. Ở câu “Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu”, rõ ràng những cồn cát đã nhỏ, ấy thế mà còn rời rạc, thưa thớt, dường như chẳng hề có chút kết nối, thêm tiếng gió buổi chiều hôm mỏng nhẹ thổi lướt qua càng khiến khung cảnh thêm tịch mịch, buồn bã. Giữa cảnh tượng cô liêu, rợn ngợp ấy, Huy Cận đã không kiềm được phải thốt lên “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”, để mong tìm được một chút âm thanh sự sống, âm thanh của con người, dù là nhỏ nhất chỉ để xua tan bớt đi cái nỗi cô đơn, trống vắng đang bủa vây. Đổi một cách nhìn khác, cái tiếng chợ chiều làng xa ấy, lại càng làm nổi bật nên sự đìu hiu, quạnh quẽ của không gian sông nước, khi mà một tiếng vãn chợ xa xăm cũng trở nên rõ ràng lọt vào tai của người lữ khách bên sông. Điều đó cũng đủ thấy rằng cảnh thiên nhiên và cảnh lòng người đang ở mức cô tịch, vắng vẻ đến độ nào. Đến câu “Nắng xuống trời lên sâu chót vót”, ta dễ dàng mường tượng ra khoảng cách xa xăm giữa trời và đất, câu thơ dường như càng kéo giãn thêm cái độ rộng dài của không gian. Mấy từ “sâu chót vót” vốn chẳng hợp lý khi đưa vào để miêu tả độ cao của trời xanh, thế nhưng trong Tràng giang thì chỉ có mấy từ ấy mới diễn tả được sâu sắc khoảng cách đất trời, làm nổi bật lên sự nhỏ bé của con người trước vũ trụ rộng lớn bao la. Và để khi rời ra tiếng chợ chiều, Huy Cận nhìn lại một lần nữa chỉ còn cảnh “Sông dài trời rộng, bến cô liêu”, cảnh sông nước mênh mông, rộng lớn, bến cô liêu chẳng một bóng người lạnh lẽo, hoang sơ và ảm đạm như chính lòng tác giả. Hồn thơ Huy Cận là một hồn thơ hay và chịu thích nghi với thời cuộc, trước cách mạng tháng tám với tư cách là một trí thức tiểu tư sản, trong các sáng tác của mình, ông thường bộc lộ những nỗi buồn thế sự, nỗi bất lực trước cảnh đổi thay của thời đại, cũng như cảnh đau thương của đất nước, thể hiện tấm lòng yêu đất nước sâu nặng. Tất cả những tình cảm ấy được thể hiện rõ nét trong 2 khổ thơ đầu bài Tràng giang bằng lối thơ vừa cổ điển vừa hiện đại, kết hợp cùng nỗi ám ảnh sâu sắc với không gian rộng lớn, Huy Cận đã tạo ra một tác phẩm xuất sắc, để lại nhiều dấu ấn trong lòng người đọc về thơ ca Việt Nam giai đoạn trước cách mạng. Giới thiệu cùng bạn 🍀 Phân Tích Vội Vàng 🍀 Bài Văn Mẫu Hay Phân Tích 2 Khổ Đầu Bài Tràng Giang Học Sinh Giỏi – Mẫu 12 Đón đọc bài văn phân tích 2 khổ đầu bài Tràng giang học sinh giỏi dưới đây để trau dồi cho mình những ý văn hay. Huy Cận 1919 – 2005, tên khai sinh là Cù Huy Cận, là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của phong trào Thơ mới. Ông sáng tác rất nhiều bài thơ về cảnh thiên nhiên con người sông nước trong đó tiêu biểu là bài thơ “Tràng giang” được ông sáng tác vào năm 1939 đăng lần đầu tiên trên báo “Ngày nay”, sau đó in vào tập “Lửa thiêng”. Bài thơ bộc lộ nỗi sầu của một cái tôi cô đơn trước thiên nhiên rộng lớn, trong đó thấm đượm tình người, tình đời, lòng yêu nước thầm kín mà thiết tha Ngay từ thi đề, nhà thơ đã khéo gợi lên vẻ đẹp cổ điển lại hiện đại cho bài thơ. “Tràng giang” là một cách nói chệch đầy sáng tạo của Huy Cận. Hai âm “ang” đi liền nhau đã gợi lên trong người đọc cảm giác về con sông, không chỉ dài vô cùng mà còn rộng mênh mông, bát ngát. Hai chữ “tràng giang” mang sắc thái cổ điển trang nhã, gợi liên tưởng về dòng Trường giang trong thơ Đường thi, một dòng sông của muôn thuở vĩnh hằng, dòng sông của tâm tưởng. Ngay từ khổ thơ đầu, người đọc đã bắt gặp những con sóng lòng đầy ưu tư, sầu não như thế “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,Con thuyền xuôi mái nước song về nước lại sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy dòng.” Hai từ láy nguyên “điệp điệp”, “song song” ở cuối hai câu thơ mang đậm sắc thái cổ kính của Đường thi. Nó gợi lên hình ảnh những con sóng lồng lên nhau và dòng nước cuốn trơi đi xa. Trên dòng dông hình ảnh con thuyền lững lờ xuôi mái nước song song. Dòng sông rộng lớn là thế sao lòng người đầy ắp nỗi buồn. Thuyền và nước luôn gắn liền với nhau thuyền đi được là nhờ nước xô đi thế mà trong thơ Huy Cận lại thấy thuyền và nước chia lìa, bị xa cách nghe đầy xót xa gợi trong lòng nhà thơ buồn trăm ngả, “Trăm” là số nhiều chỉ nỗi buồn dài vô hạn. Hình ảnh “củi khô” chỉ sự cô đơn nhỏ bé, “lạc” mang nỗi buồn vô định trôi nổi, lênh đênh trước cảnh thiên nhiên rộng lớn gợi cho người đọc thấy được cảnh cô đơn trống vắng. Nỗi lòng ấy được gợi mở nhiều hơn qua hình ảnh quạnh vắng của không gian lạnh lẽo “Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiềuNắng xuống, trời lên sâu chót vót;Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.” Hai từ láy “lơ thơ” và “đìu hiu” được tác giả khéo sắp xếp trên cùng một dòng thơ đã vẽ nên một quang cảnh vắng lặng. “Lơ thơ” gợi sự ít ỏi, bé nhỏ “đìu hiu” lại gợi sự quạnh quẽ. Giữa khung cảnh “cồn nhỏ”, gió thì “đìu hiu”, một khung cảnh lạnh lẽo, tiêu điều ấy, con người trở nên đơn côi, rợn ngộp đến độ thốt lên “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”. Chỉ một câu thơ mà mang nhiều sắc thái, vừa gợi “đâu đó”, âm thanh xa xôi, không rõ rệt, có thể là câu hỏi “đâu” như một nỗi niềm khao khát, mong mỏi của nhà thơ về một chút sự hoạt động, âm thanh sự sống của con người. Đó cũng có thể là “đâu có”, một sự phủ định hoàn toàn, chung quanh đây chẳng hề có chút gì sống động để xua bớt cái tịch liêu của thiên nhiên. “Nắng xuống, trời lên” gợi sự chuyển động, mở rộng về không gian, và gợi cả sự chia lìa bởi nắng và trời mà lại tách bạch khỏi nhau. “sâu chót vót” là cảnh diễn đạt mới mẻ, đầy sáng tạo của Huy Cận, mang một nét đẹp hiện đại. Đôi mắt nhà thơ không chỉ dừng ở bên ngoài của trời, của nắng, mà như xuyên thấu và cả vũ trụ, cả không gian bao la, vô tận. Cõi thiên nhiên ấy quả là mênh mông với “sông dài, trời rộng”, còn những gì thuộc về con người thì lại bé nhỏ, cô đơn biết bao “bến cô liêu”. Vẻ đẹp cổ điển của khổ thơ hiện ra qua các thi liệu quen thuộc trong Đường thi như sông, trời, nắng, cuộc sông còn người thì buồn tẻ, chán chường với “vãn chợ chiều”, mọi thứ đã tan rã, chia lìa. 2 khổ thơ đầu bài Tràng giang vừa mang nét cổ diển vừa mang nét hiện đại, ngôn ngữ nhẹ nhàng sâu lắng hình ảnh sáng tạo quen thuộc sông, nước, thuyền…đã tạo lên bức tranh nhiên nhiên rộng lớn nhưng lòng người lại nặng trĩu nỗi buồn, nỗi nhớ. Bài thơ còn thể hiện niềm khát khao hòa hợp giữa những con người và tình yêu quê hương đất nước kín đáo của nhà thơ. Mời bạn khám phá thêm 💕 Cảm Nhận Về Bài Thơ Vội Vàng 💕 10 Bài Văn Mẫu Hay Phân Tích Hai Khổ Thơ Đầu Bài Tràng Giang Học Sinh Giỏi Chọn Lọc – Mẫu 13 Dưới đây là bài văn mẫu phân tích hai khổ thơ đầu bài Tràng giang học sinh giỏi chọn lọc để các em học sinh cùng tham khảo. Trong phong trào thơ mới 1932-1945, ta đã biết đến một Xuân Diệu luôn mang theo mình nỗi ám ảnh thời gian, thì Huy Cận lại được mệnh danh là nhà thơ luôn luôn mang nỗi ám ảnh không gian. Và cái nỗi ám ảnh ảnh ấy được thể hiện thông qua một bài thơ rất nổi tiếng của Huy Cận và cũng là bài thơ rất nổi tiếng của phong trào thơ mới giai đoạn 1932-1945, đó là Tràng Giang. Tràng giang nằm trong tập thơ Lửa thiêng, xuất bản vào năm 1940, tác phẩm là sự hợp nhất của một nỗi sầu mênh mang và vẻ đẹp của dòng sông mênh mông sóng nước vừa cổ điển, vừa hiện đại, trên trời rộng, dưới sông dài. Đọc toàn bài thơ, ta đã nhận ra ngay vẻ đẹp cổ điển và hiện đại hiện lên thật sắc nét trong cả nhan đề và lời đề từ. Với nhan đề Tràng giang, rõ ràng đây là một từ Hán Việt với hai âm mở “ang”, âm thanh khi phát ra gợi nên những cái cảm giác về một không gian vừa cao, vừa xa lại vừa rộng, dài của một con sông hun hút chảy đến cuối trời, mang đến cho độc giả sự tĩnh lặng, cùng nỗi buồn mênh mang mờ mịt, đậm chất cổ điển. Lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” vừa thâu tóm cả tình thơ vừa thâu tóm cả cảnh thơ một cách tinh tế, thể hiện được cái nỗi buồn thời đại của tác giả trước cảnh thiên nhiên rộng lớn, mang tầm vóc vũ trụ, đồng thời là nỗi buồn cô đơn trước khung cảnh quá mức mênh mang, vô định. Có thể nói nỗi sầu của tác giả là một nỗi sầu vừa cổ điển lại vừa hiện đại, hiện đại ở chỗ Huy Cận sầu cho bản thân, sầu cho cái “tôi” đầy cô đơn của mình, cổ điển ở chỗ nhà thơ lấy cái hoàn cảnh gây nên cái sầu đó chính là thiên nhiên trầm lặng, rộng lớn, giống với nhiều nhà thơ cổ thường đem nỗi buồn gởi gắm vào thiên nhiên, “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Ta lần lượt phân tích rõ cái vẻ đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại ấy qua từng khổ của bài. Ở khổ thơ đầu tiên đó là bức tranh sông nước buồn vắng. “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,Con thuyền xuôi mái nước song về nước lại, sầu trăm ngả;Củi một cành khô lạc mấy dòng.” Câu đầu tiên ta thấy là một bức tranh mà ở đó có hai đối tượng được tác giả tái hiện, đó là thiên nhiên “sóng gợn tràng giang”, giữa một dòng sông vừa rộng lại vừa dài lại chỉ có những gợn sóng lăn tăn do gió thổi nhẹ mà nên, gợi cho ta cảm giác thật tĩnh lặng và khoáng đạt của dòng sông. Cụm “buồn điệp điệp” vừa tái hiện tâm trạng của thiên nhiên, lại cũng vừa tái hiện tâm trạng của lòng người. Hình ảnh “Con thuyền xuôi mái nước song song” thật lặng lẽ, êm đềm và có chút xót xa vương vấn, bởi ở ngay câu sau đó là hình ảnh xuôi ngược, chia lìa của hai sự vật vốn dĩ chung đôi “thuyền về nước lại”, điều đó đã gợi lên một mối “sầu trăm ngả”, dường như nỗi sầu đã lan rộng cả lòng sông. Câu thơ cuối đoạn, có lẽ là câu thơ nhấn mạnh nhất nỗi buồn của tác giả “Củi một cành khô lạc mấy dòng”, rõ ràng câu thơ chỉ tả một cành củi khô, lênh đênh trên sóng nước, nhưng nghĩ kỹ ta sẽ mường tượng ra tâm hồn khô héo và cô đơn, vô định của tác giả. Đây là hình ảnh thơ mang nét hiện đại, ở chỗ so với những hình ảnh ước lệ khác như thuyền, nước hay sóng, thì hình ảnh củi khô gần như lạc quẻ, tuy nhiên chính nó đã đem lại nét phá cách cho cả bài. Chung quy lại nỗi buồn của tác giả là một nỗi buồn nhuốm màu cổ điển lại cũng có nét hiện đại, buồn mênh mang bao trùm lên cả cảnh vật, bởi rõ trong mắt người buồn chẳng có cảnh nào vui là thế. Đồng thời nhịp điệu của đoạn thơ cũng mang đậm màu sắc cổ điển ở những từ láy “điệp điệp”, “song song”, một bút pháp thường thấy trong Đường thi. “Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiềuNắng xuống, trời lên sâu chót vót;Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.” Ở khổ thơ tiếp tác giả quay sang miêu tả những thứ khác, rất nhiều từ láy được sử dụng như “lơ thơ”, “đìu hiu”, “chót vót”, kết hợp với những hình ảnh mang tính đối lập như “Nắng xuống, trời lên”, “Sông dài, trời rộng”, đã mang đến cho từng vần thơ một nét đẹp cổ điển đậm đà. Thêm vào đó những cảnh vật và hoạt động diễn ra đều mang một nét buồn sâu lắng, cồn lơ thơ, gió đìu hiu, làng xa vãn chợ chiều, sông dài, trời rộng, bến cô liêu, tất cả đều gợi tả cảm giác cô đơn trong cái sắc tĩnh lặng cổ điển. Nét hiện đại ở trong khổ thơ là sự chuyển dịch cảm giác đầy thú vị và độc đáo “Nắng xuống, trời lên sâu chót vót”, có hợp lý không khi cho cảm giác “sâu” đi với một tính từ chỉ độ cao “chót vót”, nhưng chỉ có thế mới thể hiện hết được cái khoảng cách giữa sông với trời, giữa con người với vũ trụ bao la. Đây là một nét phá cách rất hiện đại mà những vần thơ cổ không làm được, bởi sự quy định chặt chẽ và an toàn. Tràng giang một trong những bài thơ xuất sắc của Huy Cận, tiêu biểu cho phong trào thơ mới những năm 1932-1945. Trong bài, ở 2 khổ thơ đầu ta nhận thấy những vẻ đẹp trữ tình vừa cổ điển lại vừa hiện đại của khung cảnh thiên nhiên bao la rộng lớn, đồng thời cũng là tâm trạng của tác giả trong nỗi buồn xa quê, nhớ nhà. Những điều đó đã gián tiếp thể hiện cái tình đời, lòng yêu quê hương đất nước tha thiết của Huy Cận qua những vần thơ của Tràng giang. Gợi ý cho bạn ☔ Sơ Đồ Tư Duy Vội Vàng Xuân Diệu ☔ 14 Mẫu Tóm Tắt Hay Phân Tích 2 Khổ Đầu Tràng Giang Đặc Sắc – Mẫu 14 Tham khảo bài văn phân tích 2 khổ đầu Tràng giang đặc sắc dưới đây để luyện tập nâng cao kỹ năng nghị luận văn học. Thời đại Thơ mới của Việt Nam ghi dấu sự thành danh của nhiều bậc thi nhân đại tài. Đó là một Xuân Diệu khao khát tình đến cháy bỏng, mãnh liệt. Một Chế Lan Viên trăn trở đi tìm cái tôi cá nhân. Một Hàn Mặc Tử chìm trong thực và mộng. Và có cả một nhà thơ – một con người mang tâm hồn của một kẻ ảo não, chênh vênh giữa cõi đời rộng lớn. Thơ ông hàm súc nhưng lại ẩn chứa biết bao triết lý cùng những dòng suy tưởng miên man. Không ai khác ngoài Huy Cận – chàng thi sĩ đã để lại cho đời biết bao tác phẩm xuất sắc tuyệt thế mà đặc sắc nhất phải kể đến thi phẩm “Tràng giang”. Hoàn cảnh sáng tác chính xác của Tràng giang là vào tháng 9 năm 1939, khi ấy Huy Cận mới chỉ vừa bước vào độ tuổi 20, đang theo học tại Trường cao đẳng Canh Nông. Bài thơ là một phút ngẫu hứng của thi sĩ trong buổi chiều đạp xe ra bến Chèm ngắm nhìn dòng sông Hồng đang cuộn chảy. Bao nỗi nhớ, bao cảnh sầu, sự cô đơn của một cái “tôi” trước thiên nhiên cứ thế tuôn trào để trở thành vần thơ còn lưu truyền hậu thế đến tận ngày nay. Ban đầu, bài thơ có tên là “Chiều bên sông” sau đó tác giả đổi thành “Tràng giang”. So với nhan đề cũ, Tràng giang mang âm hưởng Hán – Việt trang trọng, cổ kính hơn. Sự lan tỏa của vần “ang” không chỉ vẽ ra cái mênh mông bát ngát rợn ngợp của không gian thiên nhiên sông nước mà còn ngầm gợi ra nỗi buồn trải dài không dứt. Sau nhan đề là lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”. Chính lời đề từ này đã thâu tóm cả cảnh và tình của bài thơ. Ta thấy đâu thiên nhiên sao bao la chẳng thấy điểm cuối, còn nỗi buồn, nỗi bâng khuâng lại cứ rộng dài mãi không nguôi. Trong bài thơ Tràng giang, có thể thấy 2 bức tranh tả cảnh và tả tâm trạng của người thi sĩ rất rõ nét. Về cảnh vật, tất cả đều nhuốm một màu hiu quạnh, vắng vẻ, cô liêu. Nhà thơ mở đầu bằng 4 câu “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,Con thuyền xuôi mái nước song về nước lại, sầu trăm ngả;Củi một cành khô lạc mấy dòng” Từ láy “điệp điệp” kết hợp cùng trạng thái buồn đã mở tạo ra nốt trầm trong cung bậc cảm xúc khi vừa đọc những vần thơ đầu tiên. Ta không chỉ thấy sóng tràng giang đang cuồn cuộn mà còn thấy những đợt sóng lòng của người thi nhân dường như cũng đang mênh mang lan tỏa hòa cùng trời đất. Con thuyền trên trên sóng nước cũng chẳng mảy may chèo lái để mặc “xuôi mái nước song song”. Rồi đến cuối cùng “Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả” nhuốm màu chia ly buồn bã. Những vần thơ cứ thế mà đậm chất cổ điển, ngỡ như một bậc thi nhân xứ Trung Hoa sáng tác, cho đến khi tác giả nhắc đến hình ảnh củi. Không phải bèo cũng chẳng phải hoa trôi trên sông, mà đây là cành củi lạc dòng vô định. Thân phận củi khô héo, lênh đênh trên sông nước càng thêm phần lay động. Hai câu đầu của khổ thơ thứ hai của bài thơ tiếp nỗi buồn len lỏi vào từng không gian Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiềuNắng xuống, trời lên sâu chót vót;Sông dài, trời rộng, bến cô liêu. Nỗi buồn giăng mắc, mơ hồ hòa quyện với cái vẻ hiu hắt, quạnh quẽ đôi bờ sông. Nhà thơ muốn nghe lắm, muốn được thấy lắm tiếng người nói cười nhưng “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”. “Đâu” ở đây là diễn tả “đâu đó” hay “đâu có” – tác giả cũng không nói rõ với người đọc. Từ “vãn” càng tạo ra cảm giác xa xôi, tẻ nhạt, quạnh vắng. Vậy là muốn nghe âm thanh của cuộc sống nhưng cuối cùng đáp trả lại nỗi lòng người thi nhân chỉ là cảnh vật hoang vu, nỗi buồn man mác. Rồi bỗng nhiên, điểm nhìn từ dưới thấp đột ngột được đẩy lên cao. “Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;Sông dài, trời rộng, bến cô liêu” Ngòi bút của Huy Cận vẽ lên “nắng”, “trời”, “sông”, “bến”. Những cảnh vật vốn quen thuộc trong thơ ca nay lại nằm trong một tâm thế khác bởi một lối dùng từ ngữ chắt lọc đến tinh tế. Tác giả miêu tả “trời lên sâu chót vót” thay vì “trời lên cao chót vót”. Bởi cái “sâu” ở đây không chỉ là chiều kích không gian cảnh vật mà nó còn gợi lên một nỗi buồn không đáy, nỗi buồn trải dài đến vô cùng tận của lòng người. Người buồn cảnh có vui bao giờ, để cuối cùng những gì đọng lại chỉ còn là “Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”. Bằng những từ ngữ giàu sức gợi tả, bút pháp cổ điển mang đậm nét Đường thi, Huy Cận đã tạo ra một Tràng Giang nhuốm màu nỗi buồn, nỗi cô đơn. Một cái “tôi” lẻ loi giữa vũ trụ vô thường bao la đã được bộc lộ rất rõ nét qua 2 khổ thơ đầu của bài Tràng giang. Đồng thời, cho ta thấy rõ nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương đến da diết sầu bi trong tâm hồn người thi sĩ đa cảm. Đọc nhiều hơn 🌻 Cảm Nhận Bài Thơ Đây Thôn Vĩ Dạ 🌻 10 Bài Văn Mẫu Hay Phân Tích Hai Khổ Thơ Đầu Của Bài Tràng Giang Đạt Điểm Cao – Mẫu 15 Để viết bài văn phân tích hai khổ thơ đầu của bài Tràng giang đạt điểm cao, các em học sinh có thể tham khảo gợi ý làm bài dưới đây Thiên nhiên đẹp tươi hùng vĩ luôn ẩn chứa nhiều điều bí ẩn và kéo theo đó là vô vàn cảm xúc. Đứng trước cái bao la hùng vĩ của trời đất khiến con người đôi khi thấy mình nhỏ bé, lạc lõng và cô đơn. Và rồi cứ thế bao nhiêu cảm xúc trong lòng bỗng trào dâng, đó là nỗi nhớ quê, là những tâm sự chưa bao giờ kể. Thật vậy, thiên nhiên luôn có sức hút lớn đối với người nghệ sĩ, nó có một mãnh lực mạnh mẽ nào đó để rồi kéo người nghệ sĩ đắm chìm vào trong vẻ đẹp bí ẩn ấy. Có phải cũng vì bị cuốn vào trong mê cung cảm xúc của mình để rồi Huy Cận đặt bút viết lên bao tâm tư trong lòng. “Tràng Giang” là sản phẩm của những giây phút chơi vơi, cô đơn lạc lõng khi đứng trước dòng sông bao la, rộng lớn. Mở đầu “Tràng Giang” là khung cảnh thiên nhiên rộng lớn, hùng vĩ “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệpCon thuyền xuôi mái nước song song,Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;Củi một cành khô lạc mấy dòng.” Vẻ đẹp của thiên nhiên quả thật không có gì để bàn cãi, thế nhưng đứng trước cái bao la hùng vĩ ấy con người ta lại cảm thấy mình nhỏ bé, sự cô đơn lạc lõng của người nghệ sĩ khiến cho cảnh vật cũng thấm đượm một nỗi man mác buồn. Chỉ là những con sóng gợn lăn tăn trên mặt sông thôi thế nhưng người buồn cảnh có vui đâu bao giờ, nỗi buồn của người nghệ sĩ khiến cho mọi thứ trước mắt ông cũng man mác buồn. Những cơn sóng chẳng còn hồn nhiên, chẳng có tâm hồn mãnh liệt như “Sóng” của Xuân Quỳnh mà nó lại mang cái vẻ buồn thiu hời hợt. Cả không gian rộng lớn là thế nhưng cũng chỉ có thuyền và nước, con thuyền lặng lẽ trôi mang theo nỗi buồn ảm đạm, thuyền đi rồi khiến cho bến phảng phất nỗi buồn, nỗi cô đơn. Nhưng thế chưa đủ, nỗi cô đơn lạc lõng dâng lên cực hạn khi “Củi một cành khô lạc mấy dòng”. Sự vật cũng chỉ có đơn chiếc mà không có đôi có cặp, cô đơn lại càng thêm đơn côi mỏi mệt. Và nỗi buồn này lại nối tiếp nỗi buồn kia, sự cô đơn bủa vây tràn ngập cả không gian “Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,Đâu tiếng làng xa vãn chợ xuống, trời lên sâu chót vót;Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.” Nỗi buồn da diết ấy thấm cả vào cảnh vật, những cơn gió thổi vi vu trên không cũng trở nên đìu hiu. Gió như thôi nỗi buồn vào lòng người khiến người ta thêm ngột ngạt bởi những cơn ớn lạnh. Và cả không gian rộng lớn ấy chẳng có một bóng người, không âm thanh, không tiếng cười nói hay sự xuất hiện của con người. Chợ vốn là nơi con người tu tập để trao đổi hàng hóa, là nơi tấp nập người ra kẻ vào thế nhưng đáng buồn thay vì lại là chợ chiều. Cảnh chiều tàn vốn hiu quạnh, vắng lặng và ngập tràn bóng tối của cô đơn. Cảnh chợ chiều vốn cũng là thời khắc của một loạt những thứ đang tàn. Lúc này con người đã về hết, cả không gian bỗng im bặt đi và rồi bất chợt trong một khoảnh khắc nào đó bóng tối bủa vây nuốt chửng mọi thứ, bóng tối dày đặc và ngột ngạt đằng kia sẽ đến. Nỗi cô đơn ngập tràn cả không gian và thời gian, mở rộng cả chiều rộng và chiều sâu. Và nỗi đau thầm kín ấy lan ra khắp cả bầu trời, nó như một quả bóng được bơm căng quá nay nổ tan tành giữa mặt sông, phủ đầy không gian bởi nỗi buồn từ người đã thổi quả bóng đó. Người đó cứ hít thở nhưng là những hơi thở nặng trịch và cô đơn, cuộc sống chưa bao giờ là dễ dàng và đâu đâu cũng là muộn phiền và nỗi đau. Và cứ thế người nghệ sĩ ấy vùi mình vào trong nỗi đau vô tận ấy, có lẽ ông muốn quên đi thực tại, quên đi nỗi đau mà cả dân tộc đang phải gánh chịu. Thật vậy, qua 2 khổ thơ đầu bài Tràng giang, phải yêu và trân trọng quê hương đất nước bao nhiêu thì ông mới thấy lòng mình nặng nề đến thế. Đó là tấm lòng của một người yêu quê hương đất nước, là nỗi lòng thầm kín của một đứa con đứng trước cảnh nước mất nhà tan mà bất lực trong nỗi đớn đau đang gào thét trong trái tim mình. Giới thiệu cùng bạn 🍀 Phân Tích Bức Tranh Thiên Nhiên Đây Thôn Vĩ Dạ 🍀 13 Mẫu Đặc Sắc Phân Tích Hai Khổ Thơ Đầu Bài Thơ Tràng Giang Mở Rộng – Mẫu 16 Tham khảo bài văn phân tích hai khổ thơ đầu bài thơ Tràng giang mở rộng dưới đây để có thêm những liên hệ hay khi làm bài. Phong trào Thơ mới đã đánh dấu một giai đoạn đầy chuyển biến của thi ca. Đó là thời kỳ nở rộ của nhiều tài năng văn học. Bên cạnh Thế Lữ – người tiên phong, Xuân Diệu – “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”, người ta còn nhớ đến Huy Cận – “một hồn thơ ảo não” Hoài Thanh. Huy Cận đã đóng góp vào thơ ca một mối sầu nhân thế, một cái tôi cô đơn, buồn bã trước dòng đời. Với sự pha trộn giữa cổ điển và hiện đại, ông gửi gắm nỗi niềm ấy trong nhiều bài thơ, trong số đó phải kể đến “Tràng giang”. Có hai điều đọng lại sau khi đọc xong bài thơ này là không gian vô tận của ngoại cảnh và nỗi buồn. Nhưng vượt lên trên hết, bút pháp đặc trưng và nhuần nhuyễn giữa chất cổ điển và hiện đại đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên thật tươi đẹp, thể hiện rất rõ trong hai khổ thơ đầu của tác phẩm. Khổ đầu của bằng thơ, tác giả đã vẽ ra một không gian rộng lớn mênh mông của sóng nước. Mở rộng cùng không gian rộng lớn là sự mở rộng về cảm xúc con người. “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệpCon thuyền xuôi mái nước song songThuyền về nước lại sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy dòng” Mở đầu bằng hình ảnh sông nước mênh mông của“sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp”. Tràng giang dài rộng đang trải ra từng đợt sóng điệp điệp không dứt. Động từ “gợn” diễn tả làn sóng nhẹ nhàng có vẻ mong manh, mơ màng nhưng lại lan mãi không thôi. Nỗi buồn trải ra cùng các gợn sóng. Bao nhiêu gợn sóng là có bấy nhiêu nỗi buồn. Từ “Điệp điệp” giàu giá trị vừa là hình ảnh vừa là tâm tư. “Điệp điệp” thường được dùng để miêu tả hình ảnh của núi nhưng ở đây tác giả lại sử dụng để miêu tả nỗi buồn. Tác giả đã biến nỗi buồn từ một khái niệm trừu tượng thành hữu hình, nó vừa gợi từng đợt sóng chồng chất, tầng tầng lớp lớp, vừa diễn tả điệp điệp nỗi sầu. Khi phân tích 2 khổ thơ đầu bài Tràng giang, ta thấy sóng gợn là sóng nhẹ lăn tăn xao động, gợi cảm giác những vòm sóng như đang lan ra, xô đuổi nhau kéo đến tận chân trời. Tràng giang gợi liên tưởng đến trường giang. Nhưng ở từ trường giang mới chỉ dừng lại ở việc diễn tả độ dài của dòng sông thì tràng giang mức độ rộng mở của không gian còn được mở rộng theo cả chiều rộng. Phân tích 2 khổ thơ đầu bài Tràng giang, ta thấy cả không gian rộng lớn như lan tỏa hòa vào nhau, chiều kích không gian được mở ở biên độ cao nhất của chiều rộng và chiều dài. Đồng thời hai vần ang nối tiếp nhau tạo được âm hưởng về một dòng sông rộng lớn bao la giữa trời đất khiến ta liên tưởng đến dòng sông trong thơ ca cổ điển “Cô phàm viễn ảnh bích không tậnDuy kiến trường giang thiên tế lưu”Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng – Lý Bạch Từ láy điệp điệp thông thường điệp điệp được dùng để chỉ vật chất hoặc hình ảnh cụ thể nhưng ở câu thơ này lại được dùng chỉ tâm trạng của thi nhân. Đó là nỗi buồn liên tiếp vô cùng vô tận khôn nguôi tạo dư ba cho lời thơ. Dòng sông lớn mang trong mình nỗi buồn lớn. Âm hưởng gợi lên cái bát ngát mênh mông có phần cổ kính gần với thơ xưa “Bất tận trường giang cổn cổn lai”Đăng cao – Đỗ Phủ “Con thuyền xuôi mái nước song songThuyền về nước lại sầu trăm ngả” Hình ảnh thuyền xuôi mái được đặt cạnh hình ảnh nước song song khiến cho con thuyền như đang buông xuôi mặc cho dòng nước xô đẩy. Hay đây cũng chính là số phận con người bất lực, buông xuôi mặc dòng đời ngược xuôi. Thuyền về nước lại hai sự vật vốn gắn bó với nhau nhưng dặt trong tương quan dòng thơ như tách biệt với nhau. Qua 2 đoạn thơ đầu người đọc cảm nhận được sầu trăm ngả là nỗi buồn vốn là một khái niệm trừu tượng chỉ cảm xúc tâm trạng con người nhưng trong kết hợp độc đáo “sầu trăm ngả” nỗi buồn như có hình có khối. Nỗi sầu trăm ngả ấy là của “thuyền về” hay của “nước lại”. Nghệ thuật đối lập con thuyền – nước song song, thuyền về – nước lại nhằm nhấn mạnh sự đối lập giữa cái bé nhỏ và cái rộng lớn, ngược chiều chia cắt. Từ đó gợi dự cảm về một nỗi buồn chia ly. “Củi một cành khô lạc mấy dòng” Để có được dòng thơ này tác giả đã phải trải qua 7 lần sửa chữa. Thông thường để diễn tả số phận con người, thi nhân sẽ dùng hình ảnh cái bèo. Nhưng hình ảnh cái bèo chỉ dừng lại ở việc gợi lên một cuộc đời trôi nổi bấp bênh vô định nhưng hình tượng cành củi ngoài những điều đó còn gợi được sự khô héo, thiếu sức sống. Cách sắp xếp ngược với trật tự ngữ pháp thông thường đã tăng thêm sức biểu đạt, sức gợi của hình ảnh. Số phận con người nhỏ bé nay lại thiếu sức sống như một cành củi khô trôi nổi giữa dòng đời vô định không bờ bến. Cuộc đời vô hạn nhưng kiếp người lại ngắn ngủi hữu hạn, chớp mắt đã đến bên kia cái dốc của cuộc đời. Với tấm lòng sầu tư ngắm nhìn cảnh ấy, nhà thơ cảm thấy nỗi buồn của mình cũng đang trải ra từng đợt điệp điệp, dòng sông gợi những xao xuyến trong lòng người. Nghệ thuật ẩn dụ đã khiến sóng sông hòa với sóng lòng, những đợt sóng trên sông triền miên, vô tận như hữu hình hóa những gợn buồn trong người, nhẹ nhàng mà mênh mang không dứt. Ta nhận ra nhà thơ thường ẩn đằng sau cái mênh mông sóng nước, không như các nhà thơ Mới thường thể hiện cái tôi của mình. Nhưng các thi nhân xưa tìm đến thiên nhiên để mong có thể hòa nhập, giao cảm, Huy Cận tìm về với thiên nhiên để thể hiện nỗi suy tư về biết kiếp người. Từ không gian rộng lớn bao la của sóng nước, tầm nhìn bắt đầu thu hẹp dần thành khung cảnh bến bờ. Nhưng vẫn nằm trong nỗi buồn sầu vắng miên man. “Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiuĐâu tiếng làng xa vãn chợ chiềuNắng xuống trời lên sâu chót vótSông dài trời rộng bến cô liêu” Ở câu thơ đầu biện pháp đảo ngữ kết hợp với việc sử dụng từ láy lơ thơ càng tăng thêm sự ít ỏi cô đơn của cảnh vật. Bút pháp chấm phá đã diễn tả thành công không gian rộng lớn gợi lên nỗi buồn man mác thấm đẫm vào lòng người. Dòng thơ đa số là thanh bằng gợi một nhịp điệu nhẹ nhàng khiến ta có cảm tưởng tượng như một tiếng thở dài của đất trời. Ở câu thơ “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều” vang lên như một thanh âm trong trẻo vang lên nhưng không phá tan đi sự cô đơn lạnh lẽo của bản nhạc buồn mà càng khắc họa thêm nỗi sầu nhân thế ấy. “Đâu” là đại từ phiếm chỉ khiến cho âm thanh tư xa vang vọng lại như thực lại như ảo. “Cá đâu đớp động dưới chân bèo”Thu điếu – Nguyễn Khuyến “Làng xa” đã xác định không gian nguồn của âm thanh. Còn “Vãn chợ chiều” xác định thời gian. Âm thanh từ xa vang vọng lại không phải là tiếng cười nói xôn xao mà là âm thanh còn sót lại của một phiên chợ chiều đã tan người. “Nắng xuống trời lên sâu chót vótSông dài trời rộng bến cô liêu” “Nắng xuống trời lên” sự di chuyển ngược hướng của hai đối tượng vốn gắn bó dường như cùng tồn tại trong một khoảng không khiến cho không gian được kéo giãn hết mức để tương ứng với sông dài trời rộng. Còn “sâu chót vót” là một kết hợp từ độc đáo sáng tạo của Huy Cận diễn tả được độ cao dường như đến vô tận, tác giả cảm nhận bầu trời dường như được phản chiếu qua dòng sông. Mặt khác, sâu chót vót tương ứng với nắng xuống trời lên. Vì nắng xuống nên sâu vì trời lên nên chót vót. HÌnh ảnh “bến cô liêu” gợi sự đìu hiu vắng vẻ. Trước không gian ấy tâm trạng con người dường như cũng trở nên rộng mở, nỗi buồn dường như lan tỏa tràn ngập cả trời đất. Không chỉ là vòm trời phản chiếu vào lòng sông mà còn gợi lên nỗi buồn cô đơn không đáy của hồn người trước cái vũ trụ vô cùng. Phân tích 2 khổ thơ đầu bài Tràng giang, ta thấy con người càng nhỏ bé cô đơn, bơ vơ giữa vũ trụ bao la. Hai câu thơ của Huy Cận mới đọc qua tưởng chừng chúng không có quan hệ gì với nhau bởi không gian địa lí và hình thức câu thơ. Nhưng thực ra chúng đều cộng hưởng với nhau để làm nổi bật lên cái cô đơn, lạnh giá, lụi tàn của những kiếp người. Bài thơ mang một nỗi buồn thấm đẫm vào cả không gian thời gian. Bức tranh thiên nhiên trong Tràng giang vừa có sự vận động, vừa hữu hình vừa vô hình, thời gian, không gian phụ họa, hài hòa với nhau khiến cho cảnh vật càng lúc càng âm u, xa vắng, xúc cảm càng nặng nề. Nỗi buồn của cảnh vật khiến cho lòng người càng thêm cô quạnh hay chính nỗi buồn của lòng người khiến cho không gian cũng nhuốm màu u ám. Phân tích 2 khổ thơ đầu bài Tràng giang nói riêng hay toàn tác phẩm nói chung, ta thấy đó là nỗi sầu của người dân thuộc địa bị mất chủ quyền. Nỗi buồn ấy hòa vào cảnh vật vô biên hoang vắng tạo nên một nỗi buồn mênh mang thấm thía. Từ đó, ta thấy được tấm lòng tha thiết với cảnh vật thiên nhiên và tình yêu đất nước thầm kín của tác giả. Bài thơ mở ra bằng một khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ nhưng cô quạnh và khép lại bằng một bức tranh đầy tâm trạng. Trong khung cảnh thiên nhiên rợn ngợp ấy, con người thật nhỏ bé, chỉ như một cánh chim lẻ loi giữa bầu trời rộng lớn, như một hạt cát giữa sa mạc mênh mông. Đứng trước khung cảnh ấy con người không thể không cảm thấy cô đơn cần tìm kiếm một điểm tựa. Không gian vừa thấm đẫm phong vị thơ Đường vừa mang những nét riêng của Huy Cận. Điều đó đã tạo nên vẻ đẹp cho bài thơ. Mời bạn tham khảo 🌠 Bình Giảng Từ Ấy 🌠 15 Bài Văn Ngắn Gọn Hay Nhất Phân Tích Hai Khổ Thơ Đầu Tràng Giang Sinh Động – Mẫu 17 Chia sẻ dưới đây bài văn phân tích hai khổ thơ đầu Tràng giang sinh động với những ý văn giàu hình ảnh. Nhắc đến nhà thơ Huy Cận là nhắc đến một hồn thơ cổ điển với nỗi buồn mênh mang, sâu lắng. Bài thơ “Tràng giang” là một bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ của ông. Bài thơ viết về cảnh sông nước nhưng sau bức tranh thiên nhiên rộng lớn, u tịch ấy là một tâm hồn cô đơn, thấm đượm nỗi buồn của người thi sĩ. Đặc biệt, trong hai khổ thơ đầu tiên, Huy Cận không chỉ mở ra khung cảnh sông nước buồn vắng mà còn hé mở bức tranh tâm trạng thầm kín của bản thân “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệpCon thuyền xuôi mái nước song songThuyền về nước lại sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy dòng” Hình ảnh “sóng” trong câu đầu gợi ra những con sóng thực trên dòng giang trùng điệp đồng thời gợi cả những cơn sóng lòng đầy ưu tư trong lòng nhà thơ. Sóng trên dòng sông dài rộng kia cũng như lòng người vậy, mãi khắc khoải một nỗi buồn trùng điệp. Từ láy “điệp điệp” càng gợi tả nỗi buồn cứ lặp đi lặp lại của nhân vật trữ tình, từ ngày này qua tháng khác, nỗi buồn vừa rộng lại vừa dài, vừa sâu lại vừa xa. Con sông thoáng “gợn” đôi bờ mà lòng người khắc khoải, nỗi u sầu cứ giăng mắc mãi khôn nguôi. Giữa dòng trường giang rộng lớn ấy, hình ảnh “con thuyền xuôi mái” xuất hiện như một nét điểm xuyết cho bức tranh thơ. Con thuyền cứ lững lờ nhẹ trôi trong không gian mênh mông của sông nước càng làm nổi bật ấn tượng về sự đơn độc, lẻ loi, vô định. Thiên nhiên mênh mông quá, lòng sông dài rộng quá, biết tìm đâu bến đỗ cho con thuyền kia? Thuyền cứ thế thả mình xuôi theo những luồng nước song song, đi về mãi tận cuối chân trời. Nhịp thơ 4/3 kết hợp với các từ ngữ vần bằng càng gợi thêm những nét mênh mang của vùng sông nước vừa như gần gũi lại vừa như xa vắng “Thuyền về nước lại sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy dòng.” Thuyền và nước vốn song hành, gắn bó cùng nhau, nhưng trong cảm nhận của Huy Cận, thuyền và nước lại chẳng cùng chung một điểm đến “thuyền về nước lại”. Bằng biện pháp đối lập tương phản “thuyền về nước lại” đã đặc tả nỗi sầu xa cách, chia lìa. Cụm tính từ “sầu trăm ngả ” làm cho nỗi buồn như lan tỏa, giăng kín cả bức tranh thơ. Là thiên nhiên đang mang sầu trăm ngả” hay chính lòng người đượm niềm tiếng sầu bi? Sóng nước mênh mông, thuyền không bến đậu ngỡ là tột cùng của nỗi buồn, hình ảnh cành củi khô trơ trọi đang lạc lõng giữa dòng càng làm cho lòng người thêm bâng khuâng, khắc khoải. Nghệ thuật đảo ngữ được tác giả vận dụng đầy tinh tế nhằm nhấn mạnh cái lạc lõng của vật giữa vật, của người giữa người, của cuộc đời giữa vũ trụ bao la. Số từ “một” gợi lên sự đơn lẻ, cô độc, ít ỏi, danh từ “củi” kết hợp với tính từ “khô” càng gợi sự nhỏ bé, héo khô nhựa sống. Cành củi khô trôi dạt về đâu nơi vùng sóng nước. Không gian mang màu tâm trạng được tác giả vẽ nên bằng những nét vẽ giản dị của ngôn từ mà khiến lòng người không khỏi xót xa, u hoài. Nếu khổ thơ đầu thấp thoáng bóng dáng con người nhưng còn mờ nhạt, thì khổ thơ thứ hai xuất hiện dấu hiệu của sự sống con người nhưng còn xa vắng, quạnh hiu “Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiuĐâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.” Giữa cái lơ thơ, đìu hiu nơi cồn nhỏ, tiếng con người thoáng xao động nhưng chẳng thể nào xua tan, lấn át được cái tịch liêu của buổi hoàng hôn trên sông. Thứ âm thanh xa xôi, nhạt nhoà, không rõ rệt càng làm cho nhân vật trữ tình thêm khao khát được gặp gỡ, chuyện trò và đồng cảm. Vậy mà, niềm mong mỏi ấy càng ngóng lại càng xa vời “Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.” Không gian được mở ra, dài rộng, cao, sâu đến ngợp trời. Các hình ảnh tương phản “Nắng xuống, trời lên”, sông dài trời rộng, càng làm không gian thêm bao la, rợn ngợp, vô cùng. Sông nước mênh mông là vậy nhưng vẫn không thể nào che khuất nỗi buồn của tâm trạng, một chữ “cô liêu” ở cuối đoạn thơ đã lột tả hết tất cả nỗi buồn khôn nguôi nơi sâu thẳm đáy lòng thi sĩ, nỗi buồn không biết ngỏ cùng ai. Nhà thơ Huy Cận đã rất tinh tế khi sử dụng những hình ảnh cổ điển sông, trời, thuyền, nước; lựa chọn thời gian lúc hoàng hôn gợi nỗi buồn kết hợp với những biện pháp nghệ thuật tả cảnh ngụ tình để làm nổi bật lên bức tranh cảnh – tình. Hai khổ thơ đầu với 8 câu thơ vỏn vẹn trong 56 chữ, những mỗi chữ đều mang ý, mang tình trong đó. Khép lại đoạn thơ, người đọc không khỏi vương vấn với những nỗi buồn cùng thi sĩ. Giới thiệu đến bạn 🌟 Sơ Đồ Tư Duy Từ Ấy 🌟 10 Mẫu Vẽ Tóm Tắt Hay Phân Tích Tràng Giang Khổ 1 2 Luyện Viết – Mẫu 18 Tham khảo bài văn phân tích Tràng giang khổ 1 2 luyện viết dưới đây sẽ giúp các em học sinh nắm vững phương pháp làm bài. Phong trào Thơ Mới đánh dấu tên tuổi của nhiều thi nhân, trong đó phải kể đến Huy Cận- một hồn thơ “sầu vạn cổ”. Mỗi vần thơ của Huy Cận đều chất chứa những nỗi buồn miên man, sầu bi của nhà thơ trước thời đại, trước xã hội mà ông đang sống. Đằng sau những nỗi sầu ấy là tiếng lòng của một con người yêu nước. Bài thơ Tràng giang là một bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận. Mở đầu tác phẩm là lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”, lời đề từ với bảy chữ thôi nhưng đã bao quát toàn bộ nội dung và tư tưởng nghệ thuật mà tác giả gửi gắm. Câu thơ gợi ra nỗi buồn thương, khắc khoải, nhớ nhung của con người trước cảnh bật bao la, sâu rộng. Từ láy “bâng khuâng” càng gợi tâm trạng vương sầu và nỗi nhớ miên man nơi đáy lòng thi sĩ, gợi mở cho những câu thơ sau được giãi bày tự nhiên “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệpCon thuyền xuôi mái nước song songThuyền về nước lại sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy dòng.” Câu thơ lặp lại nhan đề tác phẩm “tràng giang”, cách điệp vần “ang” được sử dụng đầy tinh tế đã gợi ra một không gian với dòng sông dài rộng. Hai tiếng “tràng giang” cất lên càng gợi âm vang của nỗi buồn tha thiết. Những con sóng gợn nhẹ nơi dòng sông, dòng sông mang màu tâm trạng “buồn điệp điệp”. Nỗi buồn của dòng sông cũng chính là nỗi buồn sâu thẳm trong nhân vật trữ tình, cụm tính từ “buồn điệp điệp” càng làm cho nỗi buồn thêm khắc khoải, tầng tầng lớp lớp, nối tiếp nhau chẳng thể nào dứt. Tưởng chừng như nhẹ nhàng nhưng lại trĩu nặng vô bờ, thấm đẫm và lan tỏa trong từng thức cảnh. Nổi bật trong không gian dài rộng, mênh mông là hình ảnh “con thuyền xuôi mái”, con thuyền nhỏ bé, đơn độc trôi theo dòng nước, mặc nhiên lênh đênh, phiêu dạt như chính người thi sĩ cũng đang trống vắng, lẻ loi phó mặc dòng đời xô đẩy, chảy trôi. “Thuyền về nước lại sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy dòng.” Hình ảnh đối lập “thuyền về- nước lại” được tả giả vận dụng tinh tế kết hợp cùng thi liệu đầy mới mẻ “củi một cành khô lạc mấy dòng” không chỉ làm cho câu thơ thêm uyển chuyển linh hoạt mà con gợi ra được âm hưởng cổ kính. Nghệ thuật đảo ngữ “củi một cành khô ” được đưa lên đầu câu càng nhấn mạnh sự đơn độc, lẻ loi, vô định, nhỏ bé, tầm thường. Cành củi khô ấy phải chăng là hình ảnh ẩn dụ cho thi nhân với một cái tôi bơ vơ, lạc lõng trong chính đời sống của mình. Tưởng như nỗi buồn đã dừng lại, nhường chỗ cho chút niềm vui ủi an. Nhưng sang khổ thơ thứ hai, nỗi sầu càng lớn thêm nhiều chút, thấm sâu vào cảnh vật “Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiuĐâu tiếng làng xa, vãn chợ chiều Cặp từ láy tượng hình “lơ thơ” “đìu hiu” gợi bao buồn vắng, quạnh quẽ, cô đơn. Như tự nhiên vốn có, không gian chợ búa gợi sự đông vui, tấp nập, nhưng trong đoạn thơ, hình ảnh chợ xuất hiện mà chẳng thấy chút hơi ấm của cuộc sống, tiếng cười nói, mua bán của con người. Vạn vật như nằm trong sự tĩnh lặng đến tuyệt đối, không gian cũng được mở rộng cả chiều kích sâu rộng “Nắng xuống trời lên, sâu chót vótSông dài trời rộng, bến cô liêu” Nghệ thuật đối kết hợp với biện pháp tu từ nhân hoá cho thấy được chiều kích vô cùng của không gian. “Sâu chót vót” gợi sự thăm thẳm, hun hút khôn cùng. Càng rộng, càng cao, càng sâu bao nhiêu thì cảnh vật càng buồn vắng, lẻ loi bấy nhiêu. Sông tuy dài mà bến bờ cô lẻ, nỗi buồn như mở rộng theo chiều kích không gian, thấm sâu trong từng hơi thở. Bằng sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại, bài thơ đậm chất Đường thi nhưng vẫn rất Việt Nam với những hình ảnh đầy gần gũi như con thuyền xuôi mái, bèo dạt mây trôi, cành củi khô lạc dòng,.. Qua 2 khổ đầu của bài thơ Tràng giang, ta thấy được một nỗi buồn vô tận của cái tôi lạc lõng trong cuộc đời. 🍃 Bên Cạnh Phân Tích 2 Khổ Thơ Đầu Bài Tràng Giang, Tham Khảo Thêm Cảm Nhận Bài Thơ Tỏ Lòng ❤️️ 10 Bài Phân Tích Thuật Hoài Phân Tích Bài Tràng Giang 2 Khổ Đầu Ngắn Hay – Mẫu 19 Chia sẻ dưới đây bài văn phân tích bài Tràng giang 2 khổ đầu ngắn hay giúp các em học sinh có thêm gợi ý làm bài phong phú. Huy Cận là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất trong phong trào Thơ mới, thơ Huy Cận bật lên trong phong trào Thơ Mới với nỗi buồn mênh mang, khắc khoải, đó là nỗi sầu của một cái tôi giàu ý thức, giàu suy tư về cuộc đời và con người. “Tràng giang” trích trong tập thơ “Lửa thiêng” là bài thơ tiêu biểu, thể hiện rõ nhất phong cách thơ của Huy Cận, trong mỗi khổ thơ đều chất chứa nỗi buồn da diết. Đặt cái nhỏ bé của con người trước thiên nhiên mênh mông, Huy Cận đã thành công khơi dậy nỗi cô đơn, cảm giác chơi vơi, lạc lõng của con người giữa dòng đời rộng lớn. Mở đầu bài thơ là những câu thơ đậm phong cách cổ điển giàu hình ảnh và giàu nhạc điệu, chính những từ láy và cách gieo vần đã tạo nên âm điệu cho cả khổ thơ “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệpCon thuyền xuôi mái nước song songThuyền về nước lại sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy dòng” “Tràng giang” ở đây không chỉ nói đến một con sông dài mà còn rộng, những con sóng trên sông được miêu tả rất thật, sống động với từng gợn sóng, đọc câu thơ “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp” ta cảm nhận được sức gợi rất mãnh liệt, từng con sóng giống như những nỗi buồn của thi nhân, nỗi buồn ấy cứ dài rộng, triền miên theo cả không gian và thời gian. Hình ảnh con thuyền xuôi mái chèo, mặc cho sức nước đẩy đưa gợi sự lênh đênh, phó mặc số phận cuộc đời, cũng bởi con thuyền so với dòng sông là quá nhỏ bé, dòng nước “song song”, “thuyền về nước lại” chẳng hứa hẹn sự giao thoa, gặp gỡ lại mang nặng nỗi buồn chia lìa, xa cách. Ta cảm nhận được sự mới mẻ hiện đại trong “Tràng giang” bởi nó xuất hiện cái tầm thường, nhỏ bé, vô nghĩa như “củi một cành khô”, đã là củi nhưng cũng chỉ có một cành mà lại còn là củi khô, hết sức tầm thường, bé nhỏ. Hình ảnh một cành củi khô lạc trôi bồng bềnh trên dòng nước mênh mông rộng lớn gợi lên nỗi buồn về một kiếp người nhỏ bé, tầm thường. Nỗi buồn càng thấm sâu hơn vào cảnh vật khi cảnh càng hoang tàn, quạnh hiu đến nao lòng “Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiềuNắng xuống, trời lên sâu chót vót;Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.” Cặp từ láy “lơ thơ”, “đìu hiu” cùng gợi lên sự buồn bã, quạnh hiu, cô đơn, không gian xung quanh đều vắng vẻ, lại thêm tiếng vãn chợ chiều đằng xa, chợ chiều ngày xưa vốn đã thưa thớt, vắng vẻ, không có được cái nhộn nhịp tấp nập như chợ sáng, ngay cả tiếng chợ chiều đằng xa cũng không còn nữa, âm thanh cuộc sống của con người văng vẳng nhạt nhòa. Hai câu thơ sau gợi ra một không gian cao sâu, dài rộng mênh mông “sâu chót vót”, chiều cao dường như vô tận, “sông dài, trời rộng”, nhưng đứng giữa cái mênh mông bao la, rộng dài vô tận của vũ trụ đó lại chỉ có “bến cô liêu”, ta cảm nhận được sự cô liêu không chỉ của bến đò mà còn là sự cô liêu trong lòng người, con người nhỏ bé như bị choáng ngợp, lạc lõng giữa đất trời bao la. “Bèo dạt về đâu hàng nối hàngMênh mông không một chuyến đò ngangKhông cầu gợi chút niềm thân mậtLặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng” Tiếp nối mạch cảm xúc được gợi ra từ hai khổ thơ đầu, đến đây nỗi buồn vẫn được khắc sâu vào hình ảnh bèo dạt lênh đênh, lênh đênh vô định lại thêm sự chia ly tan tác, trời rộng mênh mông nhưng tuyệt nhiên không có bóng dáng con người “không một chuyến đò ngang”, cũng không có nổi một cây cầu để gắn kết, tạo sự gần gũi với con người. Chỉ có thiên nhiên với thiên nhiên “bờ xanh” với “bãi vàng” nối tiếp nhau, có thể nói, nỗi buồn của tác giả không dừng lại ở nỗi buồn trước trời rộng sông dài mà còn là nỗi buồn về nhân thế, cuộc đời. Như vậy, trong 2 khổ đầu bài thơ “Tràng giang” của Huy Cận là cả nỗi buồn cứ triền miên, vô tận, đó là cái buồn của một “cái tôi” đang cô đơn trống trải giữa thiên nhiên rộng lớn mênh mông. Bài thơ mới chấm phá nét cổ điển đã khắc họa rõ nỗi buồn nhân thế, niềm khao khát hòa nhập với cuộc đời của nhà thơ, đồng thời là tình cảm nhớ thương đối với quê hương, đất nước. Tham khảo trọn bộ 💧 Nghị Luận Chiều Tối 💧 15 Bài Văn Ngắn Gọn Hay Nhất Phân Tích Bài Tràng Giang Khổ 1 2 Đơn Giản – Mẫu 20 Tham khảo bài văn mẫu phân tích bài Tràng giang khổ 1 2 đơn giản dưới đây với những luận điểm trọng tâm và cơ bản nhất. Huy Cận được biết đến với một hồn thơ “cổ điển nhất trong phong trào Thơ mới”. Ông tâm sự “Trước Cách mạng, tôi thường có thú vui vào chiều chủ nhật hàng tuần đi lên vùng đê Chèm để ngoạn cảnh sông Hồng. Phong cảnh sông nước đẹp gợi ho tôi nhiều cảm xúc”. Và bài thơ “Tràng giang” được viết ra thể hiện một nỗi buồn, nỗi cô đơn, lạc lõng của con người trước cuộc đời. Mở đầu bài thơ, nhà thơ Huy Cận đã sử dụng hình ảnh thơ quen thuộc con thuyền, dòng sông để gợi nên cảm xúc “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệpCon thuyền xuôi mái nước song song” Âm Hán việt “tràng giang” đã được tác giả sử dụng bằng việc hiệp vần “ang”. Nó gợi cho người đọc một không gian rợn ngợp, đây là cách thể hiện nổi bật cho phong cách thơ Huy Cận. Tâm trạng nhà thơ được mở ra “buồn điệp điệp”. Đây là nỗi buồn đang được cụ thể hóa, nó được hữu hình giống như từng đợt sóng dâng trào gối vào nhau, cứ thế không ngớt vỗ vào bờ. Nỗi buồn ấy dai dẳng mà âm ỉ, như có sự tồn tại vĩnh cửu. Từ “song song” như nói đến hai thế giới đứng cạnh nhau mà không bao giờ gặp nhau. Đó là sự gần gũi mà lại chẳng có sự gặp gỡ. Qua đó, tác giả nhấn mạnh sự đơn lẻ, cô độc của con thuyền trên dòng sông, hay chăng đó cũng chính là sự đơn lẻ của con người bên dòng đời. Nhà thơ Huy Cận đã sử dụng nghệ thuật tương phản đối lập tạo nét cổ kính cho khổ thơ. Theo quy luật thuyền và nước là hai sự vật gắn bó mật thiết, nhưng trong bài thơ lại có hành động trái chiều, lạc nhịp gợi sự xa cách, gợi cảm giác cô đơn, mất mát “Thuyền về nước lại sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy dòng” Hình ảnh cành củi khô táo bạo và độc đáo trong thi ca Việt Nam. Đó là hình ảnh có một không hai. Huay Cận đã thả vào Thơ mới một cành củi khô để nói hộ tấm lòng cả một thế hệ Thơ mới. Bởi vì, xưa nay những vật tầm thường ít được đặt vào thơ, đặc biệt là thơ cổ, hình ảnh củi khô mang vẻ đẹp giản dị, đời thường nhưng lại có giá trị biểu đặt ghê gớm. Tác giả sử dụng biện pháp nghệ thuật đảo ngữ, sử dụng chắt lọc các từ đơn, khiến câu thơ như bị dập gãy, vơ vụn. & tiếng trong một câu thơ mà vỡ thành 6 mảnh cô đơn, sự cô đơn của cành củi khô với sự vô tận của dòng nước. Cảnh vật vắng vẻ, cô quạnh ở khổ thơ thứ hai, tầm nhìn đã được mở rộng hơn “Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiuĐâu tiếng làng xa vãn chợ chiềuNằng xuống trời lên sâu chót vótSông dài, trời rộng, bến cô liêu” Tác giả sử dụng từ “lơ thơ”, “đìu hiu” gợi sự xuất hiện ít và thư thớt, cảm giác của con người thoáng buồn khi đứng trước tầm nhìn rộng. Đây là sự cảm nhận bằng thị giác. Bên cạnh đó, tác giả còn có sự cảm nhận bằng thính giác cảm nhận về âm thanh cuộc sống tiếng chợ chiều. Cảnh vật như thiếu vắng hơi ấm của cuộc sống con người, cần lắm tìm đến sự tri ân. Từ “đâu” mang nhịp chậm, giọng buồn nhuốm sầu. Không gian được thắp lên màu nắng, tăng thêm cả về chiều rộng, độ cao, chiều sâu. Từ đó tác giả đã gợi ra một không gian từ mặt nước đến đáy sông, không gian được đẩy đến tận cùng, khắc họa nỗi buồn, cô đơn của con người trước cuộc đời. Tác giả như không tìm thấy sợi dây liên hệ với cuộc đời, mang đến sự vô vọng. Hai khổ thơ đầu bài “Tràng giang”, tác giả Huy Cận đã gợi ra cả không gian rợn ngợp, nhưng tâm trạng của con người lại mang cảm giác sầu buồn, cô đơn, nỗi buồn như trải dài vô tận. Đó là sự cô đơn, lẻ loi của con người trước dòng đời, và không tìm thấy sự giao cảm của bản thân với cuộc đời. Chia sẻ 🌼 Phân Tích Bài Thơ Chiều Tối Của Hồ Chí Minh 🌼 Văn Mẫu Hay Nhất Phân Tích Hai Khổ Thơ Đầu Bài Tràng Giang Để Làm Nổi Bật Bức Tranh Thiên Nhiên – Mẫu 21 Phân tích hai khổ thơ đầu bài Tràng giang để làm nổi bật bức tranh thiên nhiên là nội dung nghị luận văn học đặc sắc xoay quanh tác phẩm. Tham khảo bài văn mẫu phân tích 2 khổ đầu bài Tràng giang để làm nổi bật bức tranh thiên nhiên dưới đây Thiên nhiên là đề tài muôn thuở của thi ca, là cảm hứng sáng tác của rất nhiều nhà thơ. Mỗi tác giả lại có một cái nhìn riêng, một phương thức khác biệt để tái hiện cảnh thiên nhiên. Nếu như thiên nhiên trong thơ Xuân Diệu gây ấn tượng với vẻ đẹp mơn mởn tràn đầy sức sống thì thiên nhiên trong thơ Huy Cận lại gợi lên nhiều nghĩ suy bởi vẻ đẹp buồn man mác. Điều này được thể hiện vô cùng rõ nét qua bức tranh nhiên nhiên trong bài thơ “Tràng giang”. Thiên nhiên “Tràng giang” dưới ngòi bút Huy Cận hiện lên với vẻ đẹp cổ điển xen lẫn hiện đại, đẹp mà quạnh vắng cô liêu, bâng khuâng nỗi sầu. Gợi mở bức tranh thiên nhiên là lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”. 7 chữ ngắn gọn vừa diễn tả cảm hứng, hoàn cảnh sáng tác của bài thơ vừa dẫn dắt độc giả bước vào không gian thiên nhiên rộng lớn mang tầm vóc vũ trụ. Từ đó, hé mở dòng cảm xúc với nỗi nhớ bâng khuâng, sự lạc lõng, hoang mang giữa cảnh thiên nhiên rộng lớn, vô tận của một hồn thơ nhạy cảm, lẻ loi “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,Con thuyền xuôi mái nước song về nước lại, sầu trăm ngả;Củi một cành khô lạc mấy dòng.” Vẫn sử dụng những thi liệu và bút pháp nghệ thuật quen thuộc song Huy Cận lại vẽ lên một bức tranh thiên nhiên vô cùng ấn tượng. Giữa dòng sông rộng lớn mênh mang, vô tận, từng con sóng gợn lăn tăn, gối đầu lên nhau “điệp điệp” như không dứt. Dòng nước lững lờ trôi đi, chậm chạp mà hờ hững, vô định. Xuôi theo nó là con thuyền nhỏ bé lênh đênh “xuôi mái song song” không phương hướng dường như phó mặc theo ý muốn của đất trời. Thuyền và nước vốn song song đồng hành với nhau, đến đây lại cách xa đầy buồn tủi. Hình ảnh “thuyền về nước lại” gợi cảm giác xót xa chia lìa, mang theo hơi thở của nỗi sầu thương vây bủa. Kết hợp cùng hình ảnh “củi một cành khô lạc mấy dòng”, khung cảnh thiên nhiên vốn buồn man mác bỗng trở nên càng ưu sầu. Cành củi khô nhỏ bé nổi trôi, vô định, lẻ loi gấp nhiều lần khi chỉ có một mình giữa những dòng chảy mênh mông, cuộn xoáy. Nó dường nhiều mất đi sức sống, mất đi toàn bộ vẻ tươi xanh, nhỏ nhoi giữa không gian sông nước bao la càng khắc sâu thêm nỗi cô đơn trống vắng trong lòng người. Đồng thời, đây là hình ảnh ẩn dụ hiện đại, tượng trưng cho bao kiếp người nhỏ bé thời đại bấy giờ, nhỏ bé, cô đơn, lẻ loi trôi dạt giữa dòng sông cuộc đời bao la không tìm thấy bến bờ. Dòng xúc cảm lặng lẽ chảy trôi, ngòi bút tài hoa của Huy Cận tiếp tục đặc tả cảnh thiên nhiên hoang vắng đến nao lòng “Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiềuNắng xuống, trời lên sâu chót vót;Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.” Hai từ láy “lơ thơ”, “đìu hiu” được sử dụng khéo léo cùng biện pháp tu từ nhân hóa đã nhấn mạnh tâm trạng buồn thương của con người. Vẫn là sông nước mênh mông, vẫn là không gian bao la rộng lớn, vậy mà chỉ thưa thớt vài cồn cát, hắt hiu vài ngọn gió lạ. Ngay cả âm thanh của cuộc sống “tiếng làng xa vãn chợ chiều” dường như cũng biến mất, không biết “đâu”. Thi sĩ càng cố chạm tay vào hơi thở mong manh của cuộc sống càng thấy lòng mình thêm bâng khuâng, cô độc giữa cảnh thiên nhiên vốn bao la, nay càng mênh mang vô định bởi “nắng xuống, trời lên”. Hình ảnh “Trời rộng sông dài” ở lời đề từ đến đây đã được đổi ngược lại thành tiểu đối “Sông dài trời rộng. Kết hợp với cụm từ “bến cô liêu”, nó khiến người đọc cảm nhận được tận cùng của thiên nhiên hoang vắng và nỗi cô đơn của con người. Có thể nói, 2 khổ thơ đầu bài Tràng giang ngắn gọn nhưng bằng những nét bút tinh tế, khéo léo cùng bút pháp chấm phá đặc sắc, sự kết hợp hài hòa giữa hiện đại và cổ điển, Huy Cận đã vẽ lên trước mắt độc giả một bức tranh thiên nhiên vô cùng rung động mênh mông vô tận và man mác nỗi buồn. Khung cảnh ấy không những thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước tha thiết của nhà thơ mà còn gửi gắm nỗi niềm tâm sự của cả thế hệ trí thức trong hoàn cảnh đất nước nhiều biến động. Với những ý nghĩa đó, “Tràng giang” được đánh giá là bài thơ tiêu biểu cho phong cách Huy Cận. Nỗi “buồn” vô tận kết hợp với nỗi ám ảnh không gian lạ lùng đã ghi dấu ấn mạnh mẽ cho hồn thơ Huy Cận trong phong trào thơ Mới 1932-1945 nói riêng và văn học Việt Nam nói chung. Từ đó đóng góp cho nước nhà một tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời, đáng nâng niu, giữ gìn. Đừng bỏ qua 🔥 Sơ Đồ Tư Duy Ánh Trăng Nguyễn Duy 🔥 12 Mẫu Vẽ Tóm Tắt Phân Tích 2 Khổ Đầu Bài Thơ Tràng Giang Lớp 11 – Mẫu 22 Chia sẻ dưới đây bài văn mẫu phân tích 2 khổ đầu bài thơ Tràng giang lớp 11 hỗ trợ các em học sinh trong quá trình làm bài. Mỗi một nhà thơ trong phong trào thơ Mới đều diện cho mình một bộ y phục tối tân khác nhau, một phong cách, một giọng riêng không tìm thấy trong bất kì cổ họng của một người nào khác. Và Huy Cận, bằng nỗi sầu nhân thế, sầu vũ trụ, ông đã đem lượm lặt chút buồn rải rác để góp nhặt nên những vần thơ âu sầu, ảo não trong “Tràng Giang”. Đặc biệt với 2 khổ đầu bài thơ, bức tranh thiên nhiên hùng vĩ mà đượm buồn cùng tâm trạng bơ vơ, bế tắc đã góp phần làm nên sắc thái rất riêng, rất Huy Cận. Có thể nói, từng khổ thơ trong Tràng Giang đều được coi như những bài thơ riêng, mỗi khổ đều mang những hương vị vừa cổ điển, vừa hiện đại, đều chứa những đặc sắc hấp dẫn. Khổ đầu “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp…Củi một cành khô lạc mấy dòng.” Hình ảnh “tràng giang” gợi lên một con sông dài, rộng hùng vĩ, với những đợt sóng tung bọt trắng xóa, biểu trưng cho vẻ hùng vĩ của sông nước. Nhưng, những đợt sóng ấy lại cứ nối dài triền miên, gối đầu nhau trong những cơn buồn “điệp điệp”. Con thuyền lại một lần nữa xuất hiện, đó là hình ảnh khá quen thuộc ta từng gặp trong nhiều tứ thơ khác “Cô chu nhất hệ cố viên tâm.”Con thuyền buộc chặt mối tình quê. Thu hứng-Đỗ Phủ. Con thuyền trên sông đưa tiễn người bạn tri kỉ trong thơ của Lí Bạch ở bài “Tống mạnh hạo nhiên chi Quảng lăng” “Cô phàm viễn ảnh bích không tậnDuy kiến Trường Giang thiên tế lưu.” Hình ảnh con thuyền đã trở thành một thi liệu quen thuộc, cổ điển thường gợi sự cô đơn. Con thuyền ấy trôi dạt mênh mông, vô định trên sông nước, gợi sự cô đơn và vô định của kiếp người. Thuyền và nước gắn liền nhau, ở đây nước sông và con thuyền lại chia đôi ngả, thuyền xuôi mái song song, từ đó thấy sự bơ vơ, lạc lõng của kiếp người trôi nổi. Để con thuyền và nước sông vốn gắn bó ấy mà lại chia xa, khiến cho “thuyền về nước lại sầu trăm ngả” để bỏ buồn cho dòng sông. Phải chăng chính nỗi buồn của hồn người đã bỏ buồn cho cảnh vật. Câu thơ cuối khổ là một hình ảnh ngồn ngộn chất sống được đưa vào thơ, đấy cũng chính là tinh thần thơ Mới, là sự sáng tạo của Huy Cận. “Củi một cành khô lạc mấy dòng.” Hình ảnh một cành củi khô đã được hoán đổi bằng tài năng và sự tinh tế trong chọn lựa và diễn đạt của Huy Cận. Nếu thơ ca trung đại thường hay chọn những hình ảnh ước lệ sang trọng. Thì đến thơ Huy Cận, ông đã sẵn sàng đưa những chất sống ngồn ngộn, sống sít của đời sống thực tại phồn tạp vào thơ ca “cành củi khô”, rất chân thực và gần gũi Qua đó, kín đáo bày tỏ một niềm đau nỗi xót của Huy Cận. sang đến khổ thơ thứ hai, khung cảnh lại được tô vẽ thêm những nét tiêu điều, thê lương “Lơ thơ cồn cỏ gió đìu hiu…Sông dài trời rộng bến cô liêu.” Hình ảnh cồn cỏ lơ thơ, đìu hiu xác xơ một lần nữa thêm vào những nét vẽ tiêu điều, xơ xác cho cảnh vật. có duy nhất một hình ảnh về sự sống được xuất hiện nhưng cũng lãn vãn, ít ỏi. Chợ là biểu trưng cho cuộc sống sôi động, nhộn nhịp và đời sống kinh tế của một vùng. Đấy thế mà chợ ở đây cũng đâu đó vang vọng không rõ, đã vãn từ lâu sự sống đã đi vào thế tĩnh, không còn nhộn nhịp như trước nữa. Tiếp tục những nét vẽ cho bức tranh phong cảnh, không gian hiện ra càng thêm hùng vĩ. Nắng dồn xuống tận đáy sông và hình ảnh trời dồn lên về phía cao, khiến cho mặt phẳng không gian như bị chia cắt, bị nén chặt và cắt giữa, gây cảm giác ngột thở, khó chịu cho nhân vật trữ tình. Qua 2 khổ thơ đầu, với những hình ảnh cổ điển quen thuộc và chất hiện đại chính là ở tinh thần cái tôi thơ Mới. Cũng là nỗi buồn nhưng nó không còn gắn với quan niệm và chuẩn mực về đạo đức, trung hiếu tiết nghĩa như thơ ca trung đại, mà đó là nỗi buồn của riêng cá nhân cảm thấy bơ vơ, bế tắc và lạc lõng trước thực tại. Thiên nhiên vì thế dù mênh mông, hùng vĩ nhưng rất cô liêu và tiêu điều, hoang xơ. Bằng tình yêu thiên nhiên và trái tim của một cái tôi thơ Mới, với những giọng riêng, Huy Cận đã làm nên những vần thơ thật tinh tế mà thấm đượm cảm xúc buồn bã, thê lương. 🌼 Ngoài Văn Mẫu Phân Tích 2 Khổ Thơ Đầu Bài Tràng Giang. Khám Phá Thêm Mẫu Phân Tích Bài Thơ Ánh Trăng Của Nguyễn Duy ❤️ Hay Phân Tích 2 Khổ Đầu Bài Tràng Giang Facebook – Mẫu 23 Tham khảo bài văn phân tích 2 khổ đầu bài Tràng giang facebook dưới đây sẽ mang đến cho các em học sinh những gợi ý làm bài độc đáo. Đời người không khỏi có những lúc bước chân lang thang đến những nơi yên tĩnh để lắng đọng tâm hồn. Những lúc ấy người ta cảm thấy mình bé nhỏ trước không gian mênh mông, vũ trụ rộng lớn. Rồi chợt họ nhận ra kiếp người sao quá ngắn ngủi, đời người thật phù du và con người nhỏ bé trước vạn vật. Đọc “Tràng giang” của Huy Cận cảm xúc trong tôi dâng lên nỗi buồn cô quạnh khi nghĩ về những kiếp người trôi nổi, lênh đênh. Bài thơ “Tràng giang” ra đời vào năm 1939 khi hồn thơ của Huy Cận mang nét u sầu, chất chứa nhiều phiền muộn, tâm tư. Chính vì thế mà những từ ngữ trong bài phản ánh trực tiếp cái sầu của thi sĩ trước thời cuộc và những suy nghĩ của tác giả trên hành trình đi tìm “Thơ mới”. Tên tác phẩm “Tràng giang” đã tạo một ấn tượng mạnh mẽ về con sông dài, mênh mông. Tựa đề cũng tạo cảm giác hoài cổ khi thi sĩ sử dụng một loạt từ Hán Việt. Đã có rất nhiều người thử thay thế tên tác phẩm “Tràng giang” thành “Trường giang” nhưng riêng tôi cho rằng cái tên vốn có của nó vẫn chính xác nhất vì khi dùng “Trường giang” chỉ mới diễn tả được độ dài của con sông mà thôi. Thế nhưng khi thay bằng “Tràng giang” con sông không chỉ dài mà còn rộng. Sông trở nên mênh mông, bát ngát hơn từ đó nói lên được ý đồ của tác giả trong sự đối lập giữa thiên nhiên rộng lớn và con người bé nhỏ. Câu đề từ tiếp tục khẳng định về một con sông rộng lớn “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”. Nhưng cảm giác mang lại là sự lưu luyến, nhớ thương về một con sông trong quá khứ. Khổ thơ đầu tiên không chỉ mang đến bức tranh buồn, cô đơn mà thiên nhiên còn gợi cảnh chia li, tách rời “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệpCon thuyền xuôi mái nước song songThuyền về nước lại sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy dòng.” Với những câu thơ đầu tiên, tác giả sử dụng nhiều hình ảnh như sóng, con thuyền, củi. Sóng đi liền với động từ “gợn” – dịch chuyển nhẹ nhàng, lăn tăn lan xa. Chỉ với một nét gợn nhẹ ấy cũng đủ làm cho nhân vật trữ tình trở nên buồn bã. Từ láy “điệp điệp” diễn tả nỗi buồn chồng chất, nối tiếp nhau. Nỗi buồn không chỉ dâng lên một lúc mà nó còn kéo dài mãi, miên man không dứt. Trên những gợn sóng ấy xuất hiện “con thuyền xuôi mái” – cô đơn, lạc lõng, bơ vơ. Không nghe thấy tiếng mái chèo tạo nên tiếng sóng vỗ vào mạn thuyền chỉ thấy một con thuyền buông xuôi, lênh đênh mặc cho nước xuôi dòng. Câu thơ còn độc đáo trong việc khắc họa sự tách rời giữa thuyền và nước. Thiên nhiên không chỉ gợi buồn mà khung cảnh chia lìa cũng thấy rõ. “Thuyền về nước lại sầu trăm ngả” là câu thơ có thể hiểu nhiều cách. Thứ nhất có thể hiểu là khi thuyền về nỗi sầu của nước lại nhân lên gấp bội. Cách thứ hai chỉ rõ hơn về sự chia cắt khi thuyền và nước đi ngược chiều nhau. Lúc thuyền về lại chốn cũ cũng là lúc nước ở lại với dòng sông cùng nỗi sầu, nhưng nỗi sầu này không chỉ đi theo nước một nơi mà là nhiều chốn khác nhau. Phép đối đã được sử dụng thành công để nói về sự chia cách này. Khép lại khổ một Huy Cận mang đến một hình ảnh đậm nét cô đơn – “củi”. Tính chất của hình ảnh này là “khô” – héo úa, không còn sự sống cùng với phép đối giữa “một cành khô” – “mấy dòng” càng nhấn mạnh hơn sự chiếc bóng, lẻ loi của củi trên hành trình của mình. Động từ “lạc” đã nói lên được sự bấp bênh, lênh đênh của sự vật nhưng tác giả dùng “lạc mấy dòng” thì càng làm rõ hơn sự gian nan, “bảy nổi ba chìm” của củi. Chỉ với khổ một nhưng tâm trạng mang lại đã buồn bã, u sầu đến vậy. Tác giả bắt đầu với khổ thơ đầu tiên trong phạm vi hẹp. Đến với khổ thơ tiếp theo, không gian bây giờ đã được mở rộng hơn. “Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiuĐâu tiếng làng xa vãn chợ chiềuNắng xuống trời lên sâu chót vótSông dài trời rộng bến cô liêu.” Hình ảnh “cồn nhỏ” gợi lên không gian vắng lặng, trơ trọi. Tính từ “nhỏ” làm cho hình ảnh này càng bé nhỏ, chơ vơ kết hợp với từ láy “Lơ thơ” gợi cảm giác ít ỏi diễn tả bức tranh thiếu sức sống trên cồn cát. Không gian trên cồn không chỉ buồn mà còn hiu hắt. Đến gió cũng mang cái “đìu hiu” buồn bã, thê lương như nhấn khung cảnh vào nỗi u sầu. Các câu thơ mà tác giả sử dụng trong bài đôi khi được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều” có thể hiểu là một câu hỏi tu từ về vị trí của “tiếng làng xa”, trông ngóng về tiếng họp buổi chiều tà. Tuy nhiên “đâu” cũng là một từ mang nghĩa phủ định, tức là đến cả tiếng nói cũng những người họp chợ nhà thơ cũng không hề nghe thấy. Tất cả chỉ còn lại một không gian tĩnh lặng đến lạnh lùng. Không gian trong khổ thơ thứ hai vừa mở rộng về chiều cao và dài nhưng đồng thời cũng mở rộng cả chiều sâu vũ trụ. Thủ pháp nghệ thuật tương phản “Nắng xuống trời lên” đã giúp không gian mở rộng theo chiều cao. Nắng chiếu xuống tới đâu thì bầu trời càng được đẩy cao tới đó. Chốt lại câu thơ tác giả sử dụng “sâu chót vót” không những gợi được cái thăm thẳm, hun hút mà còn giúp cho vũ trụ được kéo dài ra nhấn mạnh hơn sự nhỏ bé của con người trước thiên hà. Câu thơ cuối cùng của khổ chính là bức tranh thiên nhiên rộng lớn, bát ngát với “sông dài trời rộng”. Trên nền không gian ấy xuất hiện “bến cô liêu”. Hình ảnh này không chỉ lột tả được cái nhỏ nhoi, đơn độc mà “cô liêu” còn là sự quạnh quẽ, lanh lẽo, chơ vơ. Nghệ thuật tương phản giữa hình ảnh bé nhỏ với không gian rộng lớn càng tô đậm hơn sự u sầu, buồn bã của tác giả khi nghĩ về kiếp người trôi nổi, long đong. Như vậy, bằng cách kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố Đường thi và yếu tố Thơ mới, cùng với việc sử dụng các biện pháp nghệ thuật như từ láy, biện pháp tương phản,… nhà thơ Huy Cận đã giúp người đọc cảm nhận về một bức tranh thiên nhiên mênh mông thông qua 2 khổ thơ đầu bài Tràng giang. Ở đó con người có thể cảm thấy sự bé nhỏ của mình trước không gian, kiếp người ngắn ngủi trước vũ trụ. “Tràng giang” còn là tiếng lòng của một người con yêu quê hương, đất nước sâu nặng. 🍁 Tiếp theo Phân Tích 2 Khổ Thơ Đầu Bài Tràng Giang. Bỏ Túi Ngay Phân Tích Đàn Ghita Của Lorca ❤️ 10 Bài Cảm Nhận Hay Nhất

phân tích khổ 2 bài tràng giang