phân tích bài đất nước đoạn 2

A. Mục tiêu bài học. 1. Kiến thức. Qua bài học giúp HS: Cảm nhận được những suy tư sâu sắc của nhà thơ về đất nước và trách nhiệm của mỗi người đối với quê hương, xứ sở. Hiểu được sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất chính luận và trữ tình, sự vận dụng Có phải bạn đang tìm kiếm chủ đề về => Phân tích đất nước đoạn 1 của Nguyễn Khoa Điềm để càng hiểu và yêu đất nước mình hơn phải không? Nếu đúng như vậy . Thứ Tư, Tháng Mười 19 2022 . Breaking News. Dàn ý phân tích 7 câu đầu bài Đất nước. 1. Mở bài. - Giới thiệu về tác giả, tác phẩm. - Trích đoạn thơ (7 câu thơ đầu) 2. Thân bài. - Giới thiệu nội dung của bảy câu thơ (nỗi nhớ của người ly biệt trước mùa thu của Hà Nội). - Hai câu đầu: Mùa thu trong nỗi 1. Mở bài Trong sự cảm nhận về đất nước của các nhà thơ trẻ thời chống Mĩ, tư tưởng về nhân dân là vấn đề cốt lõi. Đất nước là chương V trong trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm.Cái riêng biệt, độc đáo của đoạn thơ này là sự cảm nhận, phát hiện về đất nước trong một cái Phân Tích Đoạn 2 Bình Ngô Đại Cáo ️️ 12 Bài Văn Hay Nhất Giới Thiệu Tuyển Tập Bài Viết Nghị Luận Văn Học Đặc Sắc Được Chọn Lọc Tại SCR.VN. kenapa motor vario 150 tidak bisa hidup. 1. Dàn ý phân tích đoạn 2 Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi Mở bài giới thiệu tác giả tác phẩm, vị trí đoạn trích Thân bài Có thể khẳng định, đoạn một là tư tưởng nhân văn mới làm cơ sở khẳng định độc lập, chủ quyền dân tộc. Tư tưởng này xuất phát từ tình hình đất nước được Nguyễn Trãi khái quát sâu sắc như một chân lý. Chân lý đó khẳng định nhân loại đang chiến đấu chống quân xâm lược và chỉ khi đó chúng mới vạch trần được luận điệu lừa bịp mà tác giả đưa ra ở đoạn 2. Đoạn 2 của tác phẩm là bản cáo trạng tội ác của Giặc Minh. Tố cáo ách cai trị tàn bạo của nhà Minh Tàn sát người dân vô tội Khai thác, đánh thuế, bóc lột dã man, Phá hủy toàn bộ môi trường ⇒ Tội ác ghê tởm, lũ giặc dã man Có những tội ác của kẻ thù thì cái nhân nghĩa mà tác giả đưa ra mới càng thấy rõ được tính đúng đắn của nó. Bởi lẽ Độc lập chủ quyền của chúng ta là quyền thiêng liêng, có trước, không thể thay đổi Khẳng định chủ quyền của mình như bao dân tộc khác là chúng ta có phong tục riêng, lịch sử riêng, xưa nay chưa bao giờ thiếu. Nền văn hiến của chúng ta có hàng nghìn năm lịch sử đây là yếu tố cơ bản để xác định chủ quyền quốc gia. Bất kỳ kẻ xâm lược nào cũng sẽ tìm cách phủ nhận sự thật hiển nhiên này. Nguyễn Trãi vạch trần thủ đoạn của giặc, vạch trần âm mưu cướp nước của chúng. Chúng lấy chiêu bài “phù Trần diệt Hồ” nhưng thực chất là cướp nước ta – Tội ác mà chúng gây ra đối với chúng ta là hết sức man rợ và dã man. – Trước những đau khổ, gian khổ của nhân dân, tác giả vô cùng đau xót, toàn bài căm phẫn trước tội ác của giặc, đồng cảm, xót xa trước những đau khổ mà nhân dân ta phải chịu đựng. Nghệ thuật so sánh Tội ác của giặc cao như núi Nam Sơn; Sự nhơ nhớp của giặc nhiều như nước Đông Hải. Dùng cái vô cùng để nói cái vô cùng, tội ác của chúng cũng thật khôn lường, không thể chứa nổi. Kết bài đánh giá lại giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật 2. Bài phân tích đoạn 2 Bình ngô đại cáo hay nhất “Bình Ngô Đại Cáo” là tác phẩm nổi tiếng của nhà văn, nhà chính trị Nguyễn Trãi. Tác giả soạn thảo bài cáo này vào mùa xuân năm 1428, để thay mặt Lê Lợi tuyên bố chiến thắng quân Minh xâm lược. Bản cáo trạng không chỉ khẳng định độc lập, chủ quyền của Đại Việt mà còn là bản án đanh thép, lên án tội ác không thể dung thứ của bè lũ bán nước, cướp nước. Cùng phân tích đoạn 2 của Bát Đại Ngô Đồng để thấy rõ hơn nhé! Đoạn một, tác giả tự hào, hãnh diện, tuyên bố với thế giới và thế giới về lịch sử hào hùng dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Ông khẳng định chủ quyền văn hóa, lãnh thổ của Nam Bắc triều, mỗi bên mạnh một phương. Ông tin rằng thiên tài ở khắp mọi nơi, mọi lúc. Tại sao lại xâm lược và cướp bóc lẫn nhau? Nhờ lối dẫn đó, sang đến đoạn hai, tác giả trình bày ngay nguyên nhân dẫn đến cuộc chiến tranh giữa Đại Việt và nhà Minh “Vừa rồi Nhân họ Hồ chính sự phiền hà Để trong nước lòng dân oán hận Quân cuồng Minh thừa cơ gây loạn Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh” Đi sâu vào tìm hiểu đoạn 2 Có thể thấy rõ, chỉ qua 5 câu thơ ngắn ngủi thôi nhưng tác giả đã miêu tả được toàn cảnh bức tranh xã hội rối ren lúc bấy giờ. Đó là những thủ lĩnh, người đứng đầu đất nước đang bị thôn tính, nhu nhược, tham lam, chia bè phái khiến nhân dân oán hận. Trong khi đó, giặc Minh rình rập lâu ngày bên ngoài, nhân cơ hội gây loạn. Chính sự hỗn loạn kết hợp với các phe phái bán nước và cướp nước đã đặt Đại Việt vào thế cân bằng. Nguyễn Trãi là một nhà chính trị nên những lập luận của ông rất sắc bén và hợp lý. Bài thơ này đã thể hiện rõ âm mưu xâm lược của giặc Minh và bọn gian ác bán nước cầu vinh. Vì thế Đại Việt lâm nguy. Bọn bán nước, cướp nước ra sức hành hạ dân đen, gây bao tội ác. Sau khi đánh chiếm nước ta, quân Minh xâm lược Đại Việt trong hai mươi năm với những chính sách vô cùng hà khắc và tàn bạo. “…Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ Nặng nề những nỗi phu phen Tan tác cả nghề canh cửi”. Chứng kiến cảnh thương tâm của nhân dân, nhà chính trị nhân từ Nguyễn Trãi đã khẳng định tội ác của quân giặc là “Bại nhân nghĩa nát cả đất trời”. Đoạn thơ dường như vừa nói lên nỗi lòng đau đáu vì nước của tác giả, vừa như những lời đay nghiến kẻ thù. Sự tàn bạo của họ không còn do con người tạo ra nữa. Dối trời, dối dân. Chúng không chỉ cướp bóc của cải, sức người mà còn tàn phá môi trường, tận diệt sâu bọ, cây cỏ. Hơn nữa, chúng đã trực tiếp tàn sát những người da đen, những người dân lành vô tội. Người dân quanh năm gắn bó với ruộng đồng, hiền lành, đức độ. Vậy mà họ chà đạp không tha. Bằng một loạt liệt kê, kể liên tiếp những tội ác của quân thù, tác giả như trút được bao cảm xúc căm giận, căm thù. Cảm xúc đó cũng là cảm xúc chung của toàn dân Đại Việt lúc bấy giờ. Chỉ muốn vùng lên chiến đấu, chống lại kẻ thù. Phân tích đoạn 2 Đại cáo, ta càng thấy sự tài tình trong việc sử dụng các biện pháp nghệ thuật văn chương của Nguyễn Trãi. Ông đã dùng phép nhân hóa suy đoán để vạch trần tội ác tày trời của bọn cướp. Nếu sống giữa thời đó, lớn lên trong ách bạo ngược ấy mới thấy rõ quân giặc không khác gì súc vật, coi mạng người như rác rưởi. Phân tích đoạn 2 của Cựu ước là lúc người đọc cảm thấy rùng mình trước cảnh tang tóc của người dân Đại Việt xưa. Tưởng chừng chỉ là một cảnh trong phim cổ trang, nhưng hóa ra lại là sự thật hiển nhiên, được lịch sử ghi nhận. “Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội, Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi! Lòng người đều căm giận, Trời đất chẳng dung tha” Sự tàn ác man rợ của quân xâm lược không chỉ làm cho người dân thương xót mà còn căm giận cả thiên nhiên, cả biển cả cũng không thể gột rửa được mùi nhơ nhớp, đất trời cũng không chịu nổi. Với việc sử dụng phép đối xứng “ác”, “cây tre Nam Sơn – nước Đông Hải”, “lòng trời đất”… tác giả như càng nhấn mạnh thêm sự sai trái của cuộc chiến tranh phi nghĩa. Anh cũng đem ra những đồ vật vô tri, vô giác để khẳng định việc xen vào cuộc sống của người khác là tội lỗi không thể tha thứ. Ông càng chứng minh rằng, không chỉ con người mà mọi sinh vật sinh ra trên đời đều có quyền sống. Có thể nói, khi phân tích đoạn thứ hai, người đọc như đang xem một bộ phim lịch sử thấm đẫm máu và nước mắt. Có những nỗi đau, mất mát của dân tộc mà không gì có thể bù đắp được. Nhưng người đọc cũng có thể cảm nhận được sự kiên cường, bất khuất của người dân Đại Việt. Bằng ngôn từ mạnh mẽ, hùng hồn, trôi chảy trong từng câu chữ, hình ảnh, nhà chính luận Nguyễn Trãi một lần nữa mạnh mẽ lên án tội ác của quân thù. 3. Bài phân tích đoạn 2 Bình ngô đại cáo ngắn gọn nhất “Văn học không phải là cách đưa người đọc thoát ly hay lãng quên; Ngược lại, văn học là thứ vũ khí cao cả và mạnh mẽ mà chúng ta có, vừa để tố cáo vừa để thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác.” Thạch Lam. Đúng vậy, văn học là cánh tay đắc lực của mỗi giai đoạn lịch sử, để vạch trần bộ mặt giả dối của xã hội, lên án các thế lực bạo tàn, với tư cách đó là bản hùng ca cổ đại “Bình Ngô đại cáo” ở đoạn 2 đã phơi bày tội ác nhơ nhớp của quân xâm lược mà bao năm sau cũng không thể gột rửa hết. Văn chính luận của Nguyễn Trãi đều là những lớp từ, lớp ngữ sắc sảo, trình tự lập luận logic, ngay cả khi luận tội quân xâm lược, mạch lập luận vẫn hết sức sắc bén, rõ ràng. Đầu tiên, nhà thơ chỉ ra những động cơ thâm độc và thói đạo đức giả của kẻ thù “…Vừa rồi Nhân họ Hồ chính sự phiền hà Để trong nước lòng dân oán hận Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa Bọn gian tà bán nước cầu vinh…” Ngay từ những câu thơ mở đầu này, người đọc có thể thấy ngay âm mưu bất thành của kẻ thù, đồng thời vạch trần bộ mặt giả dối, âm mưu thâm độc của kẻ thù. Chúng dùng thủ đoạn xâm lược “phù Trần diệt Hồ” với con bài chính Trần Thiêm Bình nhằm mua chuộc quý tộc nhà Trần về phe chúng đô hộ nước ta. Chính sách của họ đầy dối trá và lừa lọc “Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế Gây binh kết oán trải hai mươi năm” Nhờ ngòi bút sắc sảo, nhạy bén của Nguyễn Trãi ta mới nhận ra được bộ mặt bất nhân, vô nhân tính đằng sau những âm mưu thâm độc của chúng, tiếc thay công lí không bao giờ đứng về phía bọn phi nhân, tội ác của chúng trời đất không dung thứ “Bại nhân nghĩa nát cả đất trời Nặng thuế khóa sạch không đầm núi” Nhưng đau đớn hơn, là tội ác mà họ đã gây ra cho dân tộc, cho những người dân đỏ đen đầy ngậm ngùi. Dưới ngòi bút sắc sảo của nhà thơ Nguyễn Trãi, chưa bao giờ hình ảnh con người hiện lên chua xót, cay đắng và đầy căm phẫn đến thế “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ…” Dân đen, con đỏ”, những con người lương thiện, quanh năm làm ăn khó nhọc, một lòng gắn bó với tấc đất, nhà cửa, ruộng vườn để không bị giày xéo dưới gót giày bẩn thỉu của chúng. Hình ảnh nhân hóa cũng như bút pháp miêu tả đầy ấn tượng của Nguyễn Trãi đã một lần nữa vạch trần tội ác man rợ, tàn bạo của quân xâm lược lúc này là đội quân điên cuồng, cuồng tín mơ hồ về lẽ đời con người như rác rưởi, sẵn sàng chà đạp, chà đạp, ăn thịt, uống máu người không tanh. Tội ác của chúng, ngàn năm sau, sử sách còn để lại, trời không dung đất. Không dừng lại ở đó, quân Minh xâm lược còn ra sức cướp đoạt của cải, sản vật quý hiếm của nước Nam để thỏa mãn nhu cầu vật chất, thú vui xa xỉ, xa hoa, đồi trụy của chúng bằng cách ép buộc, bóc lột, đe dọa người Việt phải săn lùng sản vật để cống nộp, cuộc sống bị đày đọa đến cùng cực “…Những người bị bắt xuống biển để tìm ngọc trai, mệt mỏi vì cá mập, Những kẻ bị đưa vào núi đào vàng, khốn khổ vào rừng sâu nước độc Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi đặt cạm…” Thủ pháp liệt kê được sử dụng đặc biệt trong trường hợp này, như để nhấn mạnh, như để tô điểm thêm cho trang sử tội ác đẫm máu, nhơ nhớp của bọn cường hào không bằng cầm thú thời bấy giờ. Ngôn từ miêu tả, như thấy được sự rạo rực, căm giận, bức bách của nhà văn khi nghĩ đến cảnh con người bị giày xéo, bị giày xéo dưới gót giày dã man, tàn bạo của kẻ thù. Bằng ngôn từ mạnh mẽ, hùng hồn thấm nhuần trong từng câu thơ, mạch chảy của bài thơ, một lần nữa Nguyễn Trãi đã vạch trần sâu sắc và bộc lộ bản chất bất nhân, bất nghĩa, tàn ác của quân xâm lược. 4. Bài phân tích đoạn 2 Bình Ngô đại cáo điểm cao nhất Nguyễn Trãi, vị anh hùng dân tộc lừng lẫy của Việt Nam với nhiều công lao và cống hiến cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Lòng yêu nước như ngọn lửa luôn cháy bỏng trong ông, lớn lên trong thời nước mất nhà tan đã hun đúc và hình thành ở Nguyễn Trãi một trái tim yêu nước nồng nàn. Không chỉ vậy, Nguyễn Trãi còn nổi tiếng tài năng trên lĩnh vực văn học với những tác phẩm nổi tiếng. Hầu hết các tác phẩm của ông đều nói về lòng yêu nước sâu sắc, lý tưởng cao cả và đặc biệt là vạch trần tội ác của kẻ thù. Điều đó được thể hiện rất rõ trong bài Bình Ngô Đại Cáo, được thể hiện ở đây qua đoạn thứ hai của tác phẩm. Nguyễn Trãi đã tố cáo và lên án tội ác của quân Minh xâm lược. Bình Ngô Đại Cáo được coi là áng áng văn cổ hùng văn nổi tiếng ghi lại tội ác của quân Minh xâm lược. Tác phẩm được viết khi quân dân ta đánh thắng quân Minh, thể hiện lòng yêu nước đi đầu và lòng căm thù giặc thể hiện rõ trong bản cáo trạng “Nhân họ Hồ chính sự phiền hà Để trong nước lòng dân oán hận Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa Bọn gian tà bán nước cầu vinh” Khi quân Minh sang xâm lược nước ta, chúng đã bày ra những âm mưu hèn hạ, lợi dụng tình thế nhà Hồ cướp ngôi nhà Trần để chớp thời cơ xâm lược nước ta. Chính tình thế hỗn loạn đó, quân Minh đã lợi dụng để thực hiện âm mưu đã định từ lâu. Không phải ngày một ngày hai, quân Minh thực hiện chính sách đô hộ nước ta gần hai mươi năm. Mục đích của chúng là xóa bỏ những gì đất nước chúng ta có là văn hóa và lịch sử của đất nước. Ngay cả những đứa trẻ cũng không tha, cho thấy quân Minh vô cùng tàn ác và hung bạo. Nhưng quân dân ta không bao giờ đầu hàng, tháng ngày dài đằng đẵng, mệt mỏi, ngã xuống nhưng vẫn đứng lên đánh giặc. Quân Minh muốn đô hộ nước ta, muốn thay đổi chính sách, muốn trả thù nước ta. Càng về sau, sự tàn ác của quân Minh càng thể hiện rõ ở chỗ chúng bắt đầu bóc lột sức người, thậm chí đánh đập, tàn phá thiên nhiên. “Nướng dân đen trên ngọn lửa hùng tàn Vùi con đỏ dưới hầm tai vạ” Những người dân thấp hèn, vô tội luôn bị kẻ thù áp bức, bóc lột nặng nề. Họ càng nhỏ bé, càng không có chỗ đứng trong xã hội, càng bị quân Minh tấn công và đàn áp. Tội ác của giặc dù trời đất cũng không thể dung thứ. Hai câu thơ này khẳng định mạnh mẽ một lần nữa tội ác của quân Minh và đây cũng là bản cáo trạng tội ác của quân xâm lược. Trúc Nam Sơn, Đông Hải được Nguyễn Trãi nhắc đến trong đoạn trích nhằm nhấn mạnh tội ác của quân Minh “Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi” Quân xâm lược chỉ thấy cái trước mắt mà không nghĩ đến hậu quả về sau. “Trúc Nam Sơn” và “nước Đông Hải” được Nguyễn Trãi nhắc đến để khẳng định không thể kể hết tội ác của đại quân Minh. Họ không bao giờ biết yêu và có một tình yêu trọn vẹn, thậm chí có thể hủy hoại con người họ, thiên nhiên xung quanh. Họ tham lam, ích kỷ để rồi có những gia đình không còn đầy đủ các thành viên. Chúng làm bao người dân khốn khổ, đất nước phải sống trong cảnh loạn lạc ngày này qua ngày khác không một phút bình yên. Nguyễn Trãi đã sử dụng thủ pháp nghệ thuật liệt kê nhiều hình ảnh, ví dụ sinh động để người đọc thấy được tội ác ghê tởm của quân Minh đối với nước ta. Hai câu kết luận của đoạn văn là một sự răn đe mạnh mẽ “Lẽ nào trời đất dung tha Ai bảo thần nhân chịu được?” Tội ác của quân Minh đối với nước ta thật không kể xiết, chúng đã khiến chúng ta lâm vào cảnh nước mất nhà tan, muôn đời không thể dung thứ. Với giọng văn đanh thép, Nguyễn Trãi đã cho người đọc thấy được sự căm phẫn không chỉ của tác giả mà của cả nhân dân ta lúc bấy giờ đối với quân Minh. Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi có ý nghĩa sâu sắc về tinh thần yêu nước của dân tộc. Dù trong hoàn cảnh khó khăn, ác liệt nhất, nhân dân ta cũng không bao giờ gục ngã, đã đoàn kết đánh thắng kẻ thù, làm rạng danh Tổ quốc. Nếu ở đầu Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm khơi gợi tâm hồn người đọc tìm về cội nguồn, lý giải sự hình thành Đất Nước, thì ở khổ thơ thứ hai, con mắt thơ Nguyễn Khoa Điềm đặt hình ảnh Đất Nước vào chiều sâu. của không gian địa lý, trong chiều dài thời gian lịch sử và trong các mối quan hệ mật thiết của mỗi cá nhân. “Đất là nơi bạn đến trường Nước là nơi tôi tắm Đất nước là nơi chúng ta gặp nhau Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ Đất là nơi “chim phượng hoàng bay về núi bạc”. Nước là nơi “móng vuốt của ngư phủ của nước biển” Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục thể hiện sự sáng tạo, sử dụng linh hoạt từ ngữ, câu văn khi ở đây, nhà thơ đã trích hai chữ Đất nước để phân tích tâm hồn sâu thẳm bên trong nó. Đất là nơi bạn đi học, nước là nơi bạn tắm, điều đó có nghĩa là hình ảnh đất nước hiện lên vô cùng gần gũi, gắn bó với cuộc sống của con người. Trước đây, khi viết về đất nước, các nhà thơ thường gọi nó, tô vẽ nó bằng những hình ảnh lung linh hùng vĩ, thì nay Nguyễn Khoa Điềm gợi ý rằng đất nước còn là không gian của nghĩa tình, là nơi gắn bó tình cảm, là cội nguồn và nguồn cảm hứng. là điểm tựa cho hạnh phúc lứa đôi. Là nơi gửi gắm nỗi nhớ thầm kín của người con gái nên nó vừa tuyệt vời vừa là mảnh ghép gợi nhớ cho tâm hồn bất cứ ai. Ở hai câu thơ tiếp theo, Đất Nước tái hiện trong ca dao, tục ngữ, để thấy rằng Đất Nước không chỉ đánh thức ký ức tuổi thơ, mà còn đánh thức ký ức văn hóa cộng đồng, những nét đẹp của con người. truyền thống cộng đồng. “Thời gian dài” Không gian rộng lớn Đất nước là nơi đoàn tụ của nhân dân ta Đất là nơi Chim đến Nước là nơi sinh sống của Rồng Lạc Long Quân và Âu Cơ Trải lòng đồng bào trong trứng nước “ Đất nước là sự rèn giũa, là sự kết hợp giữa dòng chảy vô tận của thời gian bao la, nhưng thời gian ở đây không phải là thời gian vô tri vô giác mà là thời gian của lịch sử văn hóa. Nhắc lại truyền thuyết Lạc Long Quân Âu Cơ, gợi lại ký ức lịch sử, văn hóa của cộng đồng, đồng thời cũng là điểm tựa để gợi lại những nét đẹp văn hóa dân gian của dân tộc. Đất Nước trong một thời gian dài, Đất Nước vẫn bất tử trong không gian bao la, không gian hùng vĩ. Nhìn đất nước theo cả chiều dài thời gian, chiều rộng không gian, đất nước còn là sợi dây kết nối thế hệ trước và thế hệ sau. “Những người đã chết Ai bây giờ Yêu và có con Mang phần người đi trước để lại Dạy cho con cháu của bạn về tương lai Ăn ở đâu hàng năm Họ cũng biết cúi đầu tưởng nhớ ngày giỗ tổ ”. Để làm nên bề dày văn hóa, lịch sử của Đất nước, chắc chắn là sự tích tụ, tiếp nối của nhiều thế hệ con cháu đã ngã xuống, hy sinh vì độc lập dân tộc. Đất nước sáng mãi trong lòng mỗi người bởi sự hy sinh cao cả, vì tinh thần dân tộc như ngọn lửa truyền qua bao thế hệ. Và vì thế, những người con dân tộc luôn tự nhắc nhở mình về đạo lý uống nước nhớ nguồn truyền thống Hằng năm nhớ đến ngày giỗ tổ tiên ông bà. Tiếp tục lập luận, nhà thơ nhìn Đất nước trong mối quan hệ của mỗi cá nhân “Trong anh va em hom nay Mọi người đều có một phần của đất nước Khi hai bạn nắm tay nhau Đất nước trong ta hài hòa ấm áp Khi chúng ta nắm tay mọi người Đất nước đầy đủ và rộng lớn Ngày mai con tôi lớn lên Tôi sẽ đưa đất nước đi thật xa Đến những ngày mơ mộng. “ Trong bạn và tôi, trong mỗi chúng ta đều thấm đẫm hồn quê. Đất nước vì thế là sự thống nhất giữa cái chung và cái riêng, giữa mỗi cá nhân với cả cộng đồng, giữa cái nhỏ và cái lớn, giữa cái gần gũi mộc mạc và cái xa vời vợi. Từ đó, xây dựng nhịp cầu đến trái tim người đọc, rằng Đất nước ở trong ta, không ở ngoài ta, và do đó “Hỡi ơi đất nước là máu xương của ta Phải biết gắn bó với nhau Phải biết tô thắm hình hài đất nước. Làm cho Đất Nước mãi mãi… ” Viết về đất nước, đó là nguồn cảm hứng vô tận và trong mỗi giai đoạn lịch sử, các nhà thơ, nhà văn đã gửi gắm vào đó cái hồn của thời đại mình. Ở đây, Nguyễn Khoa Điềm viết Đất Nước với mong muốn thức tỉnh những người lính tham gia kháng chiến kiến ​​quốc, soi sáng, dìu dắt họ nhưng giọng thơ của ông không hề giáo điều. đong đầy, yêu thương đến nghẹn ngào, như một lời nhắn nhủ chân thành, như một sự chuyển giao thế hệ. Nó khiến người đọc đồng cảm hơn, cảm nhận sâu sắc hơn về sự hòa quyện, gắn kết của đất nước trong tâm hồn mỗi người. Đất nước là máu xương của mỗi người, được xây dựng và gìn giữ bằng chính sức sống và lòng yêu nước thiêng liêng của biết bao thế hệ đã ngã xuống, hy sinh. Và cũng bởi vì, Đất Nước cho ta máu thịt, cho ta cách sống, cách nghĩ, cho ta điểm tựa là truyền thống văn hoá, lịch sử – những yếu tố ấy đã hun đúc nên vẻ đẹp và tâm hồn của chính ta. của người Việt Nam, trong đó có bạn và tôi, mỗi chúng ta. Nếu cá nhân nào tồn tại đơn lẻ, không có cộng đồng để bấu víu, làm điểm tựa cho sự lớn lên và nuôi dưỡng văn hóa tinh thần thì chẳng khác nào chúng ta trở nên ngu dốt. bạn thua? Đó là ý nghĩa sâu sắc nhất mà Đất nước có được tác động đến mỗi chúng ta. Vì vậy, mỗi chúng ta có trách nhiệm hóa thân thành hình đất nước, phải dấn thân hy sinh, vì đó cũng là tạo hóa tinh thần của mỗi chúng ta. Khổ thơ thứ hai thể hiện những suy ngẫm sâu sắc của Nguyễn Khoa Điềm về hình ảnh Đất Nước. Vì vậy, nó không chỉ tạo được sự đồng cảm trong tâm hồn người đọc mà còn tăng thêm sức nặng của những triết lý, tư tưởng. Nhưng cái tài tình của Nguyễn Khoa Điềm là thể hiện nó bằng những cảm xúc thiết tha và những suy tư sâu lắng. Những bài viết liên quan Đăng bởi Trường ĐH KD & CN Hà Nội Chuyên mục Văn lớp 12, Ngữ văn 12 Thông tin cần xem thêm Hình Ảnh về Phân tích bài thơ Đất Nước đoạn 2 hay nhất Video về Phân tích bài thơ Đất Nước đoạn 2 hay nhất Wiki về Phân tích bài thơ Đất Nước đoạn 2 hay nhất Phân tích bài thơ Đất Nước đoạn 2 hay nhất Phân tích bài thơ Đất Nước đoạn 2 hay nhất - Phân tích bài thơ Đất nước đoạn 2 Nếu ở đầu Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm khơi gợi tâm hồn người đọc tìm về cội nguồn, lý giải sự hình thành Đất Nước, thì ở khổ thơ thứ hai, con mắt thơ Nguyễn Khoa Điềm đặt hình ảnh Đất Nước vào chiều sâu. của không gian địa lý, trong chiều dài thời gian lịch sử và trong các mối quan hệ mật thiết của mỗi cá nhân. “Đất là nơi bạn đến trường Nước là nơi tôi tắm Đất nước là nơi chúng ta gặp nhau Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ Đất là nơi “chim phượng hoàng bay về núi bạc”. Nước là nơi "móng vuốt của ngư phủ của nước biển" Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục thể hiện sự sáng tạo, sử dụng linh hoạt từ ngữ, câu văn khi ở đây, nhà thơ đã trích hai chữ Đất nước để phân tích tâm hồn sâu thẳm bên trong nó. Đất là nơi bạn đi học, nước là nơi bạn tắm, điều đó có nghĩa là hình ảnh đất nước hiện lên vô cùng gần gũi, gắn bó với cuộc sống của con người. Trước đây, khi viết về đất nước, các nhà thơ thường gọi nó, tô vẽ nó bằng những hình ảnh lung linh hùng vĩ, thì nay Nguyễn Khoa Điềm gợi ý rằng đất nước còn là không gian của nghĩa tình, là nơi gắn bó tình cảm, là cội nguồn và nguồn cảm hứng. là điểm tựa cho hạnh phúc lứa đôi. Là nơi gửi gắm nỗi nhớ thầm kín của người con gái nên nó vừa tuyệt vời vừa là mảnh ghép gợi nhớ cho tâm hồn bất cứ ai. Ở hai câu thơ tiếp theo, Đất Nước tái hiện trong ca dao, tục ngữ, để thấy rằng Đất Nước không chỉ đánh thức ký ức tuổi thơ, mà còn đánh thức ký ức văn hóa cộng đồng, những nét đẹp của con người. truyền thống cộng đồng. "Thời gian dài" Không gian rộng lớn Đất nước là nơi đoàn tụ của nhân dân ta Đất là nơi Chim đến Nước là nơi sinh sống của Rồng Lạc Long Quân và Âu Cơ Trải lòng đồng bào trong trứng nước " Đất nước là sự rèn giũa, là sự kết hợp giữa dòng chảy vô tận của thời gian bao la, nhưng thời gian ở đây không phải là thời gian vô tri vô giác mà là thời gian của lịch sử văn hóa. Nhắc lại truyền thuyết Lạc Long Quân Âu Cơ, gợi lại ký ức lịch sử, văn hóa của cộng đồng, đồng thời cũng là điểm tựa để gợi lại những nét đẹp văn hóa dân gian của dân tộc. Đất Nước trong một thời gian dài, Đất Nước vẫn bất tử trong không gian bao la, không gian hùng vĩ. Nhìn đất nước theo cả chiều dài thời gian, chiều rộng không gian, đất nước còn là sợi dây kết nối thế hệ trước và thế hệ sau. “Những người đã chết Ai bây giờ Yêu và có con Mang phần người đi trước để lại Dạy cho con cháu của bạn về tương lai Ăn ở đâu hàng năm Họ cũng biết cúi đầu tưởng nhớ ngày giỗ tổ ”. Để làm nên bề dày văn hóa, lịch sử của Đất nước, chắc chắn là sự tích tụ, tiếp nối của nhiều thế hệ con cháu đã ngã xuống, hy sinh vì độc lập dân tộc. Đất nước sáng mãi trong lòng mỗi người bởi sự hy sinh cao cả, vì tinh thần dân tộc như ngọn lửa truyền qua bao thế hệ. Và vì thế, những người con dân tộc luôn tự nhắc nhở mình về đạo lý uống nước nhớ nguồn truyền thống Hằng năm nhớ đến ngày giỗ tổ tiên ông bà. Tiếp tục lập luận, nhà thơ nhìn Đất nước trong mối quan hệ của mỗi cá nhân "Trong anh va em hom nay Mọi người đều có một phần của đất nước Khi hai bạn nắm tay nhau Đất nước trong ta hài hòa ấm áp Khi chúng ta nắm tay mọi người Đất nước đầy đủ và rộng lớn Ngày mai con tôi lớn lên Tôi sẽ đưa đất nước đi thật xa Đến những ngày mơ mộng. " Trong bạn và tôi, trong mỗi chúng ta đều thấm đẫm hồn quê. Đất nước vì thế là sự thống nhất giữa cái chung và cái riêng, giữa mỗi cá nhân với cả cộng đồng, giữa cái nhỏ và cái lớn, giữa cái gần gũi mộc mạc và cái xa vời vợi. Từ đó, xây dựng nhịp cầu đến trái tim người đọc, rằng Đất nước ở trong ta, không ở ngoài ta, và do đó “Hỡi ơi đất nước là máu xương của ta Phải biết gắn bó với nhau Phải biết tô thắm hình hài đất nước. Làm cho Đất Nước mãi mãi… ” Viết về đất nước, đó là nguồn cảm hứng vô tận và trong mỗi giai đoạn lịch sử, các nhà thơ, nhà văn đã gửi gắm vào đó cái hồn của thời đại mình. Ở đây, Nguyễn Khoa Điềm viết Đất Nước với mong muốn thức tỉnh những người lính tham gia kháng chiến kiến ​​quốc, soi sáng, dìu dắt họ nhưng giọng thơ của ông không hề giáo điều. đong đầy, yêu thương đến nghẹn ngào, như một lời nhắn nhủ chân thành, như một sự chuyển giao thế hệ. Nó khiến người đọc đồng cảm hơn, cảm nhận sâu sắc hơn về sự hòa quyện, gắn kết của đất nước trong tâm hồn mỗi người. Đất nước là máu xương của mỗi người, được xây dựng và gìn giữ bằng chính sức sống và lòng yêu nước thiêng liêng của biết bao thế hệ đã ngã xuống, hy sinh. Và cũng bởi vì, Đất Nước cho ta máu thịt, cho ta cách sống, cách nghĩ, cho ta điểm tựa là truyền thống văn hoá, lịch sử - những yếu tố ấy đã hun đúc nên vẻ đẹp và tâm hồn của chính ta. của người Việt Nam, trong đó có bạn và tôi, mỗi chúng ta. Nếu cá nhân nào tồn tại đơn lẻ, không có cộng đồng để bấu víu, làm điểm tựa cho sự lớn lên và nuôi dưỡng văn hóa tinh thần thì chẳng khác nào chúng ta trở nên ngu dốt. bạn thua? Đó là ý nghĩa sâu sắc nhất mà Đất nước có được tác động đến mỗi chúng ta. Vì vậy, mỗi chúng ta có trách nhiệm hóa thân thành hình đất nước, phải dấn thân hy sinh, vì đó cũng là tạo hóa tinh thần của mỗi chúng ta. Khổ thơ thứ hai thể hiện những suy ngẫm sâu sắc của Nguyễn Khoa Điềm về hình ảnh Đất Nước. Vì vậy, nó không chỉ tạo được sự đồng cảm trong tâm hồn người đọc mà còn tăng thêm sức nặng của những triết lý, tư tưởng. Nhưng cái tài tình của Nguyễn Khoa Điềm là thể hiện nó bằng những cảm xúc thiết tha và những suy tư sâu lắng. Những bài viết liên quan Đăng bởi Trường ĐH KD & CN Hà Nội Chuyên mục Văn lớp 12, Ngữ văn 12 [rule_{ruleNumber}] Phân tích bài thơ Đất nước đoạn 2 Nếu ở đầu Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm khơi gợi tâm hồn người đọc tìm về cội nguồn, lý giải sự hình thành Đất Nước, thì ở khổ thơ thứ hai, con mắt thơ Nguyễn Khoa Điềm đặt hình ảnh Đất Nước vào chiều sâu. của không gian địa lý, trong chiều dài thời gian lịch sử và trong các mối quan hệ mật thiết của mỗi cá nhân. “Đất là nơi bạn đến trường Nước là nơi tôi tắm Đất nước là nơi chúng ta gặp nhau Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ Đất là nơi “chim phượng hoàng bay về núi bạc”. Nước là nơi “móng vuốt của ngư phủ của nước biển” Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục thể hiện sự sáng tạo, sử dụng linh hoạt từ ngữ, câu văn khi ở đây, nhà thơ đã trích hai chữ Đất nước để phân tích tâm hồn sâu thẳm bên trong nó. Đất là nơi bạn đi học, nước là nơi bạn tắm, điều đó có nghĩa là hình ảnh đất nước hiện lên vô cùng gần gũi, gắn bó với cuộc sống của con người. Trước đây, khi viết về đất nước, các nhà thơ thường gọi nó, tô vẽ nó bằng những hình ảnh lung linh hùng vĩ, thì nay Nguyễn Khoa Điềm gợi ý rằng đất nước còn là không gian của nghĩa tình, là nơi gắn bó tình cảm, là cội nguồn và nguồn cảm hứng. là điểm tựa cho hạnh phúc lứa đôi. Là nơi gửi gắm nỗi nhớ thầm kín của người con gái nên nó vừa tuyệt vời vừa là mảnh ghép gợi nhớ cho tâm hồn bất cứ ai. Ở hai câu thơ tiếp theo, Đất Nước tái hiện trong ca dao, tục ngữ, để thấy rằng Đất Nước không chỉ đánh thức ký ức tuổi thơ, mà còn đánh thức ký ức văn hóa cộng đồng, những nét đẹp của con người. truyền thống cộng đồng. “Thời gian dài” Không gian rộng lớn Đất nước là nơi đoàn tụ của nhân dân ta Đất là nơi Chim đến Nước là nơi sinh sống của Rồng Lạc Long Quân và Âu Cơ Trải lòng đồng bào trong trứng nước “ Đất nước là sự rèn giũa, là sự kết hợp giữa dòng chảy vô tận của thời gian bao la, nhưng thời gian ở đây không phải là thời gian vô tri vô giác mà là thời gian của lịch sử văn hóa. Nhắc lại truyền thuyết Lạc Long Quân Âu Cơ, gợi lại ký ức lịch sử, văn hóa của cộng đồng, đồng thời cũng là điểm tựa để gợi lại những nét đẹp văn hóa dân gian của dân tộc. Đất Nước trong một thời gian dài, Đất Nước vẫn bất tử trong không gian bao la, không gian hùng vĩ. Nhìn đất nước theo cả chiều dài thời gian, chiều rộng không gian, đất nước còn là sợi dây kết nối thế hệ trước và thế hệ sau. “Những người đã chết Ai bây giờ Yêu và có con Mang phần người đi trước để lại Dạy cho con cháu của bạn về tương lai Ăn ở đâu hàng năm Họ cũng biết cúi đầu tưởng nhớ ngày giỗ tổ ”. Để làm nên bề dày văn hóa, lịch sử của Đất nước, chắc chắn là sự tích tụ, tiếp nối của nhiều thế hệ con cháu đã ngã xuống, hy sinh vì độc lập dân tộc. Đất nước sáng mãi trong lòng mỗi người bởi sự hy sinh cao cả, vì tinh thần dân tộc như ngọn lửa truyền qua bao thế hệ. Và vì thế, những người con dân tộc luôn tự nhắc nhở mình về đạo lý uống nước nhớ nguồn truyền thống Hằng năm nhớ đến ngày giỗ tổ tiên ông bà. Tiếp tục lập luận, nhà thơ nhìn Đất nước trong mối quan hệ của mỗi cá nhân “Trong anh va em hom nay Mọi người đều có một phần của đất nước Khi hai bạn nắm tay nhau Đất nước trong ta hài hòa ấm áp Khi chúng ta nắm tay mọi người Đất nước đầy đủ và rộng lớn Ngày mai con tôi lớn lên Tôi sẽ đưa đất nước đi thật xa Đến những ngày mơ mộng. “ Trong bạn và tôi, trong mỗi chúng ta đều thấm đẫm hồn quê. Đất nước vì thế là sự thống nhất giữa cái chung và cái riêng, giữa mỗi cá nhân với cả cộng đồng, giữa cái nhỏ và cái lớn, giữa cái gần gũi mộc mạc và cái xa vời vợi. Từ đó, xây dựng nhịp cầu đến trái tim người đọc, rằng Đất nước ở trong ta, không ở ngoài ta, và do đó “Hỡi ơi đất nước là máu xương của ta Phải biết gắn bó với nhau Phải biết tô thắm hình hài đất nước. Làm cho Đất Nước mãi mãi… ” Viết về đất nước, đó là nguồn cảm hứng vô tận và trong mỗi giai đoạn lịch sử, các nhà thơ, nhà văn đã gửi gắm vào đó cái hồn của thời đại mình. Ở đây, Nguyễn Khoa Điềm viết Đất Nước với mong muốn thức tỉnh những người lính tham gia kháng chiến kiến ​​quốc, soi sáng, dìu dắt họ nhưng giọng thơ của ông không hề giáo điều. đong đầy, yêu thương đến nghẹn ngào, như một lời nhắn nhủ chân thành, như một sự chuyển giao thế hệ. Nó khiến người đọc đồng cảm hơn, cảm nhận sâu sắc hơn về sự hòa quyện, gắn kết của đất nước trong tâm hồn mỗi người. Đất nước là máu xương của mỗi người, được xây dựng và gìn giữ bằng chính sức sống và lòng yêu nước thiêng liêng của biết bao thế hệ đã ngã xuống, hy sinh. Và cũng bởi vì, Đất Nước cho ta máu thịt, cho ta cách sống, cách nghĩ, cho ta điểm tựa là truyền thống văn hoá, lịch sử – những yếu tố ấy đã hun đúc nên vẻ đẹp và tâm hồn của chính ta. của người Việt Nam, trong đó có bạn và tôi, mỗi chúng ta. Nếu cá nhân nào tồn tại đơn lẻ, không có cộng đồng để bấu víu, làm điểm tựa cho sự lớn lên và nuôi dưỡng văn hóa tinh thần thì chẳng khác nào chúng ta trở nên ngu dốt. bạn thua? Đó là ý nghĩa sâu sắc nhất mà Đất nước có được tác động đến mỗi chúng ta. Vì vậy, mỗi chúng ta có trách nhiệm hóa thân thành hình đất nước, phải dấn thân hy sinh, vì đó cũng là tạo hóa tinh thần của mỗi chúng ta. Khổ thơ thứ hai thể hiện những suy ngẫm sâu sắc của Nguyễn Khoa Điềm về hình ảnh Đất Nước. Vì vậy, nó không chỉ tạo được sự đồng cảm trong tâm hồn người đọc mà còn tăng thêm sức nặng của những triết lý, tư tưởng. Nhưng cái tài tình của Nguyễn Khoa Điềm là thể hiện nó bằng những cảm xúc thiết tha và những suy tư sâu lắng. Những bài viết liên quan Đăng bởi Trường ĐH KD & CN Hà Nội Chuyên mục Văn lớp 12, Ngữ văn 12 Bạn thấy bài viết Phân tích bài thơ Đất Nước đoạn 2 hay nhất có giải quyết đươc vấn đề bạn tìm hiểu không?, nếu không hãy comment góp ý thêm về Phân tích bài thơ Đất Nước đoạn 2 hay nhất bên dưới để có thể chỉnh sửa & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website ĐH KD & CN Hà Nội Nguồn Phân tích bài thơ Đất Nước đoạn hay nhất Trường Đại học Quản lý và Kinh doanh Hà nội là một trường dân lập, thuộc Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam, được phép thành lập theo Quyết định số 405/TTg, ngày 15/6/1996 của Thủ tướng Chính phủ. Trường chịu sự quản lý Nhà nước của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Hệ thống văn bằng của Trường nằm trong hệ thống văn bằng quốc gia. Ngày 15/09/2006 Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định số 750/QĐ-TTg về việc đổi tên trường thành Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội Nếu như mở đầu Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm khơi nguồn cho tâm hồn người đọc tìm về cội nguồn, để lý giải sự hình thành Đất Nước thì đến đoạn thơ thứ 2, đôi mắt thơ của Nguyễn Khoa Điềm đặt hình ảnh Đất Nước trong chiều rộng của không gian địa lý, trong chiều dài của thời gian lịch sử và trong mối quan hệ gắn bó của mỗi cá nhân. “Đất là nơi anh đến trường Nước là nơi em tắm Đất Nước là nơi ta hò hẹn Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc” Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi” Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục cho thấy cách sử dụng từ, câu linh hoạt sáng tạo của mình khi ở đây, nhà thơ đã chiết tự hai từ Đất Nước để phân tích về linh hồn thẳm sâu bên trong nó. Đất là nơi anh đến trường, nước là nơi em tắm, nghĩa là hình ảnh đất nước hiện lên vô cùng gần gũi, gắn bó khăng khít với cuộc sống của con người. Xưa kia, viết về Đất Nước các nhà thơ thường gọi nó, họa nó bằng những hình ảnh lung linh hùng vĩ, nay Nguyễn Khoa Điềm gợi về đất nước còn là không gian tình tự, nơi gắn kết tình cảm, nơi khơi nguồn và là điểm tựa cho hạnh phúc lứa đôi. Là nơi gửi gắm nỗi nhớ thầm của người con gái, vậy nên vừa lớn lao mà cũng là mảnh kí ức gợi nhớ gợi thương cho tâm hồn bất cứ ai. Hai câu thơ tiếp, Đất Nước lại hiện ra trong những câu ca dao, tục ngữ, để thấy được Đất Nước không chỉ đánh thức ký ức tuổi thơ, mà còn đánh thức cả những miền kí ức văn hóa cộng đồng, nét đẹp dân gian truyền thống của cộng đồng. “Thời gian đằng đẵng Không gian mênh mông Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ Đất là nơi Chim về Nước là nơi Rồng ở Lạc Long Quân và Âu Cơ Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng” Đất Nước là sự hun đúc, là sự kết thành giữa dòng chảy trôi bất tận của thời gian mênh mông, nhưng thời gian ở đây không phải thời gian vô tri, mà là thời gian của lịch sử của văn hóa. Nhắc lại truyền thuyết Lạc Long Quân Âu Cơ, nhắc về ký ức lịch sử văn hóa cộng đồng, và đồng thời cũng là một điểm tựa để gợi về nét đẹp văn hóa văn học dân gian của dân tộc. Đất Nước trong thời gian đằng đẵng, Đất Nước còn trường tồn bất tử trong không gian mênh mông, không gian hùng vĩ. Nhìn Đất Nước trong cả chiều dài thời gian, chiều rộng không gian, Đất Nước còn là sự kết nối những thế hệ đã qua và thế hệ kế tục “Những ai đã khuất Những ai bây giờ Yêu nhau và sinh con đẻ cái Gánh vác phần người đi trước để lại Dặn dò con cháu chuyện mai sau Hằng năm ăn đâu làm đâu Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ” Để tạo nên bề dày văn hóa, lịch sử của Đất Nước, chắc chắn là sự đắp bồi, tiếp nối của biết bao thế hệ cháu con đã ngã xuống, hy sinh vì độc lập dân tộc. Đất Nước sáng mãi trong tâm khảm mỗi người bởi sự hi sinh vĩ đại, lớn lao, bởi tinh thần dân tộc như ngọn lửa trao truyền bao thế hệ. Và vì thế, những người con dân tộc luôn nhắc mình đạo lí Uống nước nhớ nguồn truyền thống Hàng năm, đều nhớ ngày giỗ tổ. Tiếp tục mạch lập luận, nhà thơ nhìn Đất Nước trong cả mối quan hệ của mỗi cá nhân “Trong anh và em hôm nay Đều có một phần Đất Nước Khi hai đứa cầm tay Đất Nước trong chúng mình hài hòa nồng thắm Khi chúng ta cầm tay mọi người Đất nước vẹn tròn, to lớn Mai này con ta lớn lên Con sẽ mang đất nước đi xa Đến những tháng ngày mơ mộng”. Trong anh và em, trong mỗi chúng ta, đều thấm nhuần điệu hồn của Đất Nước. Đất nước vì thế là sự thống nhất giữa cái chung và cái riêng, giữa mỗi cá nhân với tất cả cộng đồng, giữa cái nhỏ bé và cái to lớn, giữa cái gần gũi mộc mạc và cái xa xôi lớn lao. Để từ đó, bắc cây cầu đến trái tim của người đọc, rằng Đất nước ở trong ta chứ không phải ở ngoài ta, và vì thế “Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình Phải biết gắn bó san sẻ Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở Làm nên Đất Nước muôn đời…” Viết về Đất Nước, đó là nguồn cảm hứng bất tận và trong mỗi thời kỳ lịch sử, các nhà thơ, nhà văn lại đằm vào nó điệu hồn của thời đại mình. Ở đây, Nguyễn Khoa Điềm viết Đất Nước với mong muốn thức tỉnh những người chiến sĩ tham gia vào cuộc kháng chiến của dân tộc, để soi sáng, dẫn đường cho họ, thế nhưng giọng thơ của ông không hề mang tính giáo điều mà chan chứa, đằm thắm những nghẹn ngào, như một lời gửi gắm chân thành, như một sự chuyển giao thế hệ. Khiến cho người đọc như phần nào thêm đồng cảm, thêm thấm thía về sự hòa quyện, gắn kết của Đất Nước trong tâm hồn mỗi người. Đất Nước là máu xương của mỗi người, vì nó được gây dựng và được giữ gìn bằng sự sống và tình yêu nước thiêng liêng của biết bao thế hệ đã ngã xuống, đã hi sinh. Và còn bởi, Đất Nước cho ta hình hài máu thịt, cho chúng ta cách sống và cách nghĩ, cho chúng ta điểm tựa truyền thống văn hóa, lịch sử – những yếu tố đó đã hun đúc nên vẻ đẹp và nét tâm hồn riêng của con người Việt Nam, trong đó có cả anh và em, có mỗi chúng ta. Nếu bất cứ một cá nhân nào tồn tại đều là sự đơn độc mà không có một cộng đồng để bám víu, để làm điểm tựa cho sự trưởng thành và dưỡng nuôi về văn hóa tinh thần, thì chẳng khác nào ta trở thành kẻ bơ vơ lạc lõng ư? Đó chính là ý nghĩa thẳm sâu nhất mà Đất Nước có sức ảnh hưởng đến mỗi chúng ta. Vì thế mỗi chúng ta đều phải có trách nhiệm hóa thân cho dáng hình xứ sở, đều phải gắn bó hinh sinh, vì đó cũng là sự tạo tác tinh thần của mỗi chúng ta. Đoạn thơ thứ hai đã thể hiện sự chiêm nghiệm sâu sắc của Nguyễn Khoa Điềm về hình ảnh Đất Nước. Do đó, nó không chỉ tạo nên sự đồng cảm trong tâm hồn người đọc mà còn tăng sức nặng bởi những triết lý, tư tưởng. Nhưng cái tài tình của Nguyễn Khoa Điềm là diễn đạt nó bằng cảm xúc nồng nàn, suy tư sâu lắng. Các bài viết liên quan Soạn bài Đất Nước – Nguyễn Khoa Điềm hay nhất Soạn bài Đất Nước – Nguyễn Khoa Điềm ngắn nhất Có phải bạn đang tìm kiếm chủ đề về => Phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 phải không? Nếu đúng như vậy thì mời bạn xem nó ngay tại đây. Xem thêm các bài tập khác tại đây => Blog Video về Phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 Wiki về Phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 Phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 - Hãy phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Bôi đoạn 2 để thấy được những phát hiện độc đáo và gần gũi của nhà thơ về hình ảnh đất nước. Khai mạc Giới thiệu tác giả và tác phẩm của ông Đất nước là đề tài mang lại nhiều cảm hứng cho các nhà thơ, nhất là trong thời kỳ độc lập dân tộc bị giặc ngoại xâm uy hiếp. Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Bôi đoạn 2 Có thể thấy nhận thức sâu sắc của thế hệ trẻ Việt Nam trong thời kỳ chống Mỹ. Nhận thức này chính là điểm tựa để mỗi người suy ngẫm về tình yêu, đất nước, trách nhiệm với đất nước. Đoạn trích “Đất nước” nằm trong chương V của sử thi “Mặt phố khát vọng” và được coi là đoạn hay nhất của sử thi này. ma thuật Thân hình Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Bôi đoạn 2 theo luận điểm Luận điểm 1 Thời đất nước ra đời Về hình tượng đất nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm, Trần Đình Sử cho rằng đó là “đất nước của nhân dân”. Và ông gọi bài thơ Đất nước là bài thơ chính luận, vì bài thơ viết về đất nước và con người. Trong đoạn trích “Đất nước”, Nguyễn Khoa Điềm đưa ra quan niệm về đất nước vừa quen vừa lạ. Nhưng ông không chỉ giải thích đất nước, con người là gì mà còn gửi gắm tình cảm sâu sắc của mình đối với đất nước, con người. Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Bôi đoạn 2 Có thể thấy, sự kết hợp của hai phương diện này đã gắn kết chất trữ tình và chất chính luận trong bài thơ. Mỗi khổ thơ nhỏ trong đoạn trích đều nhằm giải thích và trả lời những câu hỏi về đất nước, những câu hỏi được liên kết chặt chẽ và logic. Mở đầu bằng câu hỏi về thời gian, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm muốn đưa người đọc ngược về quá khứ, tìm hiểu về lịch sử đất nước, về thời khai sinh ra đất nước Khi chúng ta lớn lên, đất nước đã có Đất nước ở “một thời, ngày xưa…” mẹ tôi thường nói với tôi Đất nước bắt đầu từ miếng trầu bà ăn Đất nước lớn lên khi dân tộc biết trồng tre đánh giặc. Tóc mẹ vén sau đầu Cha mẹ thương nhau gừng cay muối mặn. Kèo, cột sang tên… Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Bôi đoạn 2 Chúng ta thấy, trong câu thơ này chúng ta thấy có sự xuất hiện của rất nhiều trạng từ chỉ thời gian, “một thời, trong quá khứ”, “bây giờ”, “từ ngày đó”. Và gắn liền với những mốc thời gian này là “miếng trầu bà ăn nem”. Tức là đất nước đã có từ lâu đời, từ xa xưa, trong phong tục tập quán của dân gian. Và gần hơn, đất nước trong tình yêu thương của từng gia đình nhỏ, trong từng hạt gạo. Sau khi giải thích các câu hỏi để xác định tình yêu và đất nước, Nguyễn Khoa Điềm hỏi một câu hỏi quen thuộc về một thứ gắn liền với đời sống con người, “Trái đất là gì?” Chúng tôi biết đây không phải là một câu hỏi mới, và không phải Nguyễn Khoa Điềm là người hỏi đầu tiên. Trong dân gian, trong các lĩnh vực lịch sử, địa lý và dân tộc học, “đất” được xác định. Như trong văn học cổ, người ta cũng đã đưa ra câu trả lời cho câu hỏi “quốc gia là gì?”. Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Bôi đoạn 2 chúng ta thấy rõ hơn những nhận xét của Nguyễn Khoa Điềm về “đất” Đất là nơi bạn đến trường Nước là nơi tôi tắm Đất nước là nơi chúng ta gặp nhau Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ. Qua những câu thơ trên ta thấy đất nước hiện lên thật bình dị nhưng cũng thật độc đáo. Đất nước được xác định cũng thật trữ tình và hấp dẫn người đọc. Nhưng ở đây, đất nước không chỉ viết cho những người yêu nhau, mà nhà thơ viết cho tất cả mọi người. Đất Nước được Nguyễn Khoa Điềm thuyết minh rất dài, rất cụ thể nhưng cũng rất giản dị, hợp lí và vô cùng thuyết phục. Những kiến ​​giải này được nhà thơ dựa trên hai trục không gian và thời gian. Đó là “thời gian dài” và “không gian vô lượng”. Và giữa không gian bao la và trường tồn ấy, đất nước hiện lên thật to lớn, hùng vĩ qua hình ảnh “chim phượng hoàng bay về núi bạc – cá vuốt nước biển”. Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Bôi đoạn 2 Ta thấy không gian đất nước hiện lên thật hùng vĩ nhưng cũng thật trữ tình. Và ở những câu thơ sau, Nguyễn Khoa Điềm đã giải thích định nghĩa về đất nước từ góc độ truyền thuyết cổ Đất là nơi Chim đến Nước là nơi Rồng sinh sống. Hai câu thơ dựa trên sự tích Lạc Long Quân và Âu Cơ, cha và mẹ của đồng bào ta. Lạc Long Quân và Âu Cơ sinh ra dân ta trong bọc trăm trứng, nghĩa nước tạo ra mọi người, mọi người, mọi thế hệ, mọi người sống và cả những người đã chết. ẩn giấu. Nhưng dù là ai, sinh ra ở đâu thì chúng ta cũng đều cúi đầu tưởng nhớ ngày giỗ Tổ. Đất nước luôn ở trong bạn, trong bạn và tất cả chúng ta, trong những người đã khuất, trong những con người hôm nay và các thế hệ mai sau. Tất cả tạo nên một miền quê vừa rộng lớn, vừa thiêng liêng, thân thuộc và luôn chan chứa nghĩa tình. Ở những câu thơ tiếp theo, giọng văn của Nguyễn Khoa Điềm vẫn rất súc tích nhưng cũng đầy tình cảm thân thương. Em ơi, đất nước là máu xương của em Phải biết gắn bó với nhau Phải biết tô thắm hình hài đất nước. Làm cho một đất nước mãi mãi … Những câu thơ trên không khỏi khiến ta liên tưởng đến bài thơ Về đất nước của Chế Lan Viên. Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Bôi đoạn 2 Ở những câu trên ta thấy, nếu với Nguyễn Khoa Điềm, “đất nước là máu xương của mình”, thì phải biết “hóa thân thành hình đất nước”; Chế Lan Viên viết Ôi đất nước ta yêu như máu thịt Chất chính luận trong bài thơ thuyết phục người đọc tin tưởng, còn chất trữ tình khiến người đọc xúc động, say mê. Và chính sự hòa quyện giữa chất chính trị và chất trữ tình trong thơ Nguyễn Khoa Điềm trong cách nói về đất nước đã làm nên sức hấp dẫn của bài thơ. Và những hình ảnh, chi tiết cụ thể trong bài thơ được nâng lên tầm khái quát. Đề 2 Tư tưởng về đất nước của nhân dân qua phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa đoạn 2 Ở phần hai của bài thơ, Nguyễn Khoa Điềm đã có một phát hiện độc đáo khi nói về những nhân tố góp phần tạo nên đất nước. Vợ nhớ chồng cũng góp cho đất nước núi Vọng Phu Những đôi trai gái yêu nhau góp mặt ở hòn Trống Mái. Vó ngựa Thánh Gióng đi qua, nhưng trăm ao đầm vẫn còn Chín mươi chín con voi góp phần xây dựng bờ cõi của các Vua Hùng Những con rồng nằm im trong dòng sông xanh thẳm Chàng sinh viên nghèo đóng góp cho Tổ quốc nhưng núi Bút non Nghiên Con cóc và con gà cùng góp phần đưa Hạ Long trở thành thắng cảnh Những người góp công mang tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm Và ở khắp mọi nơi trên những cánh đồng và những ngọn đồi Không có một hình dạng, một khát vọng, một cách sống Ở đây chúng ta thấy, đất nước hiện ra với nhiều hình ảnh cụ thể. Đó là một đất nước rộng lớn, hùng vĩ, một đất nước có bề dày lịch sử ngàn năm. Nhưng đất nước đó cũng là một thứ gì đó gần gũi và thân thuộc với mọi người. Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Bôi đoạn 2 Qua đây ta thấy, đất nước không của riêng ai, không phải những anh hùng đã làm nên đất nước mà đất nước cũng là của những con người bình thường, những con người vô danh thầm lặng. Tất cả đều tạo cho đất nước một hình hài. Những con người yêu nhau góp phần cho đất nước “Núi Bút, non Nghiên”. Và ngay cả con gà, con cóc cũng góp phần tạo nên Vịnh Hạ Long huyền thoại cho đất nước. Còn những người bình thường thì “Ông Đốc”, “Bà Đen”, “Bà Điểm” cũng đã làm nên những danh thắng cho đất nước. Và từ những phát hiện độc đáo này, Nguyễn Khoa Điềm đã đưa ra một cái nhìn khái quát sâu sắc và xúc động về đất nước Ôi đất nước sau bốn ngàn năm tôi có thể nhìn thấy nó ở khắp mọi nơi Cuộc sống đã biến thành núi và sông của chúng ta Nhưng đây chưa phải là đoạn kết của bài thơ, cũng không phải là đoạn kết của những suy nghĩ, cảm xúc về đất nước. Bởi dường như, đất nước hiện diện ở bất cứ đâu, trong bất cứ điều gì chúng ta nói đến, từ những người con trai ra trận cho đến những cô gái ở nhà nuôi con khôn lớn. Mà nhiều người trong số họ đã trở thành anh hùng. Họ sống và chết Đơn giản và bình tĩnh Không ai nhớ tên Nhưng họ đã làm cho Đất nước Tuy nhiên, đất nước là của tất cả mọi người, đất nước không chỉ được tạo nên bởi những con người “sống chết mặc bay”. Nhưng ở đây tác giả cũng bày tỏ lòng biết ơn đối với những con người vô danh, những người “không ai nhớ tên – nhưng họ đã làm nên Đất Nước”. Họ sống giản dị và làm việc lặng lẽ nhưng mang nhiều ý nghĩa lớn lao. Bởi chính họ đã truyền lại những gì vô cùng quý giá, từ hạt gạo, ngọn lửa đến tiếng nói cho chúng ta. Từ những suy ngẫm đó, Nguyễn Khoa Điềm đã đúc kết rằng Đất nước này là đất nước của muôn dân, đất nước của nhân dân, đất nước của ca dao thần thoại, đất nước của cả những anh hùng và những người anh hùng. không có tên. Tất cả họ, bất kể có để lại tên tuổi trong lịch sử, tượng đài hay tấm bia lưu niệm hay không, đều đã đem lại cho đất nước một cuộc sống bình dị, nghĩa tình, làm nên một đất nước anh hùng trường tồn. bao la, rộng lớn cả về thời gian và không gian. Kết luận khi phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa đoạn 2 Đoạn trích “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm cho ta thấy một đất nước rộng lớn, đa chiều được thể hiện qua vốn tri thức phong phú của nhà thơ. Đồng thời, phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Bôi đoạn 2 Ta thấy tác phẩm này là sự tổng kết những trải nghiệm của nhà thơ trong thời gian bị giam cầm trong nhà tù của quân Mỹ ngụy và khi tham gia phong trào học sinh ở Huế. Bằng tất cả sự chân thành và suy tư sâu sắc, Nguyễn Khoa Điềm gửi đến người đọc những cảm nhận riêng, độc đáo và gần gũi về đất nước. Đặc biệt, đây không chỉ là cảm xúc của nhà thơ mà còn là tiếng nói đại diện cho cả một thế hệ thanh niên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước khi nói về đất nước. Về nghệ thuật, “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm là sự kết hợp hài hòa giữa lối viết chính luận và chất tự sự trong thơ. Phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 Phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn [rule_3_plain] Phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn Phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 để thấy những phát hiện độc đáo mà gần gũi của nhà thơ về hình ảnh đất nước. Phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn Mở bài Giới thiệu tác giả, tác phẩm Đất nước là đề tài mang đến nhiều cảm hứng cho người thi nhân, đặc biệt là giai đoạn nền độc lập dân tộc bị đe dọa bởi giặc ngoại xâm. Phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 ta thấy được nhận thức sâu sắc của thế hệ thanh niên Việt Nam thời kỳ chống Mỹ. Nhận thức này chính là điểm tựa để mỗi người suy ngẫm về tình yêu, đất nước, trách nhiệm với đất trích “Đất nước” nằm ở chương V của trường ca “Mặt đường khát vọng” và được xem là phần hay nhất của trường ca bài Phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 theo luận điểm Luận điểm 1 Thời điểm đất nước ra đời Đối với hình ảnh đất nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm, Trần Đình Sử cho rằng đó là “đất nước của nhân dân”. Và ông gọi bài thơ “Đất nước” là bài thơ chính luận, vì bài thơ bàn về đất nước và nhân đoạn trích “Đất nước”, Nguyễn Khoa Điềm đưa ra những khái niệm về đất nước vừa quen vừa lạ. Nhưng ông không chỉ lí giải đất nước, nhân dân là gì mà còn gửi gắm tình cảm sâu nặng dành cho đất nước, đối với nhân dân. Phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 ta thấy, việc kết hợp giữa hai phương diện này đã mang đến cho bài thơ chất trữ tình và chất chính luận thấm nhuần cùng nhau. Mỗi khổ thơ nhỏ trong đoạn trích đều hướng đến lí giải, trả lời những câu hỏi về đất nước, mà những câu hỏi đều có liên kết với nhau chặt chẽ, hợp đầu với câu hỏi về thời gian, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm muốn đưa độc giả trở về quá khứ, để tìm hiểu về lịch sử của đất nước, về thời điểm mà đất nước ra đời Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồiĐất Nước có trong những cái “ngày xửa, ngày xưa…” mẹ thường hay kểĐất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ănĐất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặcTóc mẹ thì bới sau đầuCha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặnCái kèo, cái cột thành tên…Phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 ta thấy, trong đoạn thơ này ta thấy xuất hiện nhiều trạng từ chỉ thời gian, “ngày xửa, ngày xưa”, “bây giờ”, “từ ngày đó”. Và gắn liền với những mốc thời gian này là “miếng trầu bà ăn”. Nghĩa là đất nước đã có từ lâu đời, từ xa xưa, trong phong tục tập quán văn hóa dân gian. Và gần hơn, đất nước có trong tình yêu của mỗi gia đình nhỏ, trong cả từng hạt khi lí giải cho các câu hỏi để xác định tình yêu và đất nước, Nguyễn Khoa Điềm đặt câu hỏi quen thuộc về một thứ gắn liền với đời sống con người, “Đất là gì?” Ta biết đây không phải là một câu hỏi mới mẻ và cũng không phải Nguyễn Khoa Điềm là người đầu tiên đưa ra. Mà trong văn học dân gian, trong các địa hạt lịch sử, địa lý, dân tộc học, “đất” đã được định nghĩa. Như trong văn học từ xưa người ta cũng đã đi tùm câu trả lời cho câu hỏi “đất nước là gì?”. Phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 , ta càng thấy rõ những nhận định của Nguyễn Khoa Điềm về “đất”Đất là nơi anh đến trườngNước là nơi em tắmĐất Nước là nơi ta hò hẹnĐất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ những câu thơ trên ta thấy, đất nước hiện lên thật giản dị mà cũng độc đáo biết bao. Đất nước được định nghĩa cũng thật trữ tình và lôi cuốn người đọc. Nhưng ở đây, đất nước không chỉ được viết cho những người yêu nhau, mà nhà thơ viết cho tất cả mọi người. Đất nước được Nguyễn Khoa Điềm kiến giải rất dài, rất cụ thể nhưng cũng rất đơn giản, có lý và vô cùng thuyết phục. Những kiến giải này được nhà thơ dựa trên hai trục không gian và thời gian. Đó là “thời gian đằng đẵng” và “không gian mênh mông”. Và giữa không gian bao la, thời gian dài rộng ấy, đất nước hiện ra thật to lớn, hùng vĩ qua hình ảnh “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc – con cá ngư ông móng nước biển khơi”.Phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 ta thấy không gian đất nước hiện lên thật hùng vĩ mà rất trữ tình. Và ở những câu thơ tiếp theo, Nguyễn Khoa Điềm cắt nghĩa định nghĩa về đất nước từ góc độ những truyền thuyết thời xa xưaĐất là nơi Chim vềNước là nơi Rồng câu thơ dựa trên truyền thuyết về Lạc Long Quân và Âu Cơ, người cha người mẹ của đồng bào ta. Lạc Long Quân và Âu Cơ đẻ ra đồng bào ta trong bọc trăm trứng, nghĩa là đất nước tạo ra tất cả mọi người, là tất cả mọi người, tất cả thế hệ, là tất cả những người đang sống và cả những người đã khuất. Nhưng dù bạn là ai, sinh ra ở đâu thì tất cả chúng ta đều cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ. Đất nước luôn ở trong anh, trong em và trong tất cả chúng ta, trong những người đã khuất, trong những người hôm nay và những thế hệ mai sau. Tất cả tạo nên một đất nước vừa rộng lớn thiêng liêng, vừa gần gũi quen thuộc và bao giờ cũng tròn vẹn nghĩa câu thơ tiếp theo, giọng thơ của Nguyễn Khoa Điệm vẫn thật khúc chiết nhưng cũng chứa chan bao tình cảm đằm ơi đất nước là máu xương của mìnhPhải biết gắn bó san sẻPhải biết hóa thân cho dáng hình xứ sởLàm nên đất nước muôn đời…Những câu thơ trên không khỏi khiến ta nghĩ về câu thơ của Chế Lan Viên viết về đất nước. Phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 ở những câu trơ trên ta thấy, nếu với Nguyễn Khoa Điềm, “đất nước là máu xương của mình” nên chúng ta phải biết “hóa thân cho dáng hình xứ sở”; thì Chế Lan Viên viếtÔi Tổ quốc ta yêu như máu thịtChất chính luận trong bài thơ thuyết phục người đọc tin, còn chất trữ tình lại khiến người đọc xúc động và nảy nở yêu thương. Và chính sự hòa quyện của chất chính luận và trữ tình trong thơ Nguyễn Khoa Điềm trong cách nói về đất nước đã tạo nên sức hấp dẫn cho bài thơ. Và những hình ảnh, chi tiết cụ thể trong bài thơ được nâng lên tầm khái quát. Luận điểm 2 Tư tưởng đất nước nhân dân qua phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 Trong phần thứ hai của bài thơ, Nguyễn Khoa Điềm đưa ra một phát hiện độc đáo khi nói về những yếu tố góp thành đất người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng PhuCặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống MáiGót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lạiChín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng VươngNhững con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳmNgười học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non NghiênCon cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnhNhững người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà ĐiểmVà ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãiChẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông chaỞ đây ta thấy, đất nước hiện lên với nhiều hình ảnh cụ thể. Đó là một đất nước bao la, hùng vĩ, một đất nước với nền văn hiền nghìn năm lịch sử. Nhưng đất nước ấy cũng là những điều gần gũi, quen thuộc với tất cả mọi người. Phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 đến đây ta thấy, đất nước không phải của riêng ai, không phải những người anh hùng mới có công làm nên đất nước, mà đất nước còn là một phần của những con người bình thường, những con người vô danh lặng lẽ. Tất cả họ đều góp cho đất nước một dáng người yêu nhau thì góp cho đất nước “núi Bút, non Nghiên”. Và ngay cả những con gà, con cóc cũng góp phần góp cho đất nước vịnh Hạ Long huyền thoại. Còn những người dân bình thường, nào “ông Đốc”, “bà Đen”, “bà Điểm” cũng đều làm nên những địa danh nổi tiếng cho đất từ những phát hiện độc đáo này, Nguyễn Khoa Điềm đã khái quát vê đất nước thật sâu sắc và đầy xúc độngÔi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấyNhững cuộc đời đã hóa núi sông taNhưng đây không phải là kết thúc bài thơ, cũng không phải kết thúc cho những suy ngẫm, cảm xúc về đất nước. Bởi dường như, đất nước hiện diện ở bất cứ đâu, ở bất kì điều gì ta nói đến, từ những người con trai ra trận đến những người con gái ở nhà nuôi dạy con cái. Mà nhiều người trong số họ đã trở thành anh đã sống và chếtGiản dị và bình tâmKhông ai nhớ mặt đặt tênNhưng họ đã làm ra Đất NướcTuy nhiên đất nước là tất cả mọi người, đất nước không chỉ được tạo nên bởi những lớp người “đã sống và chết”. Mà ở đây tác giả còn thể hiện lòng biết ơn đối với những người vô danh, những người “không ai nhớ mặt đặt tên – nhưng họ đã làm ra Đất Nước”. Họ đã sống giản dị và làm việc thầm lặng nhưng lại mang đến ý nghĩa lớn lao. Bởi chính họ đã truyền lại điều quý giá biết bao, từ hạt lúa, ngọn lửa đến tiếng nói cho những suy ngẫm này, Nguyễn Khoa Điềm đã kết luận rằng Đất Nước này là đất nước của tất cả mọi người, đất nước của nhân dân, đất nước của ca dao thần thoại, đất nước của cả những anh hùng và cả những người vô danh. Tất cả họ dù để lại một dòng tên trong lịch sử, một tượng đài hay một tấm bia lưu danh hay không đều mang lại cho đất nước một cuộc đời bình dị mà ý nghĩa lớn lao, làm nên một đất nước trường tồn và hùng vĩ, rộng lớn cả về thời gian và không gian. Kết luận khi phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 Đoạn trích “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm đã cho ta thấy một đất nước rộng lớn, đa chiều được thể hiện bằng vốn hiểu biết phóng phú của nhà thơ. Đồng thời, phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 ta thấy tác phẩm này là đúc kết những trải nghiệm của nhà thơ trong khoảng thời gian ông bị tù đày trong nhà tù của quân Mỹ ngụy và thời điểm tham gia phong trào sinh viên ở tất cả lòng chân thành và suy ngẫm sâu sắc, Nguyễn Khoa Điềm gửi gắm tới bạn đọc những cảm nghĩ riêng mà độc đáo, gần gũi về đất nước. Đặc biệt, đây không phải chỉ là cảm nhận của riêng nhà thơ mà còn là tiếng nói đại diện cho cả một thế hệ thanh niên trong kháng chiến chống Mỹ khi nói về đất nước. Về mặt nghệ thuật, “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm là sự kết hợp hài hòa của lối viết chính luận và chất trữ trình trong thơ. Phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn Mở bài Giới thiệu tác giả, tác phẩm Đất nước là đề tài mang đến nhiều cảm hứng cho người thi nhân, đặc biệt là giai đoạn nền độc lập dân tộc bị đe dọa bởi giặc ngoại xâm. Phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 ta thấy được nhận thức sâu sắc của thế hệ thanh niên Việt Nam thời kỳ chống Mỹ. Nhận thức này chính là điểm tựa để mỗi người suy ngẫm về tình yêu, đất nước, trách nhiệm với đất trích “Đất nước” nằm ở chương V của trường ca “Mặt đường khát vọng” và được xem là phần hay nhất của trường ca bài Phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 theo luận điểm Luận điểm 1 Thời điểm đất nước ra đời Đối với hình ảnh đất nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm, Trần Đình Sử cho rằng đó là “đất nước của nhân dân”. Và ông gọi bài thơ “Đất nước” là bài thơ chính luận, vì bài thơ bàn về đất nước và nhân đoạn trích “Đất nước”, Nguyễn Khoa Điềm đưa ra những khái niệm về đất nước vừa quen vừa lạ. Nhưng ông không chỉ lí giải đất nước, nhân dân là gì mà còn gửi gắm tình cảm sâu nặng dành cho đất nước, đối với nhân dân. Phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 ta thấy, việc kết hợp giữa hai phương diện này đã mang đến cho bài thơ chất trữ tình và chất chính luận thấm nhuần cùng nhau. Mỗi khổ thơ nhỏ trong đoạn trích đều hướng đến lí giải, trả lời những câu hỏi về đất nước, mà những câu hỏi đều có liên kết với nhau chặt chẽ, hợp đầu với câu hỏi về thời gian, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm muốn đưa độc giả trở về quá khứ, để tìm hiểu về lịch sử của đất nước, về thời điểm mà đất nước ra đời Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồiĐất Nước có trong những cái “ngày xửa, ngày xưa…” mẹ thường hay kểĐất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ănĐất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặcTóc mẹ thì bới sau đầuCha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặnCái kèo, cái cột thành tên…Phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 ta thấy, trong đoạn thơ này ta thấy xuất hiện nhiều trạng từ chỉ thời gian, “ngày xửa, ngày xưa”, “bây giờ”, “từ ngày đó”. Và gắn liền với những mốc thời gian này là “miếng trầu bà ăn”. Nghĩa là đất nước đã có từ lâu đời, từ xa xưa, trong phong tục tập quán văn hóa dân gian. Và gần hơn, đất nước có trong tình yêu của mỗi gia đình nhỏ, trong cả từng hạt khi lí giải cho các câu hỏi để xác định tình yêu và đất nước, Nguyễn Khoa Điềm đặt câu hỏi quen thuộc về một thứ gắn liền với đời sống con người, “Đất là gì?” Ta biết đây không phải là một câu hỏi mới mẻ và cũng không phải Nguyễn Khoa Điềm là người đầu tiên đưa ra. Mà trong văn học dân gian, trong các địa hạt lịch sử, địa lý, dân tộc học, “đất” đã được định nghĩa. Như trong văn học từ xưa người ta cũng đã đi tùm câu trả lời cho câu hỏi “đất nước là gì?”. Phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 , ta càng thấy rõ những nhận định của Nguyễn Khoa Điềm về “đất”Đất là nơi anh đến trườngNước là nơi em tắmĐất Nước là nơi ta hò hẹnĐất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ những câu thơ trên ta thấy, đất nước hiện lên thật giản dị mà cũng độc đáo biết bao. Đất nước được định nghĩa cũng thật trữ tình và lôi cuốn người đọc. Nhưng ở đây, đất nước không chỉ được viết cho những người yêu nhau, mà nhà thơ viết cho tất cả mọi người. Đất nước được Nguyễn Khoa Điềm kiến giải rất dài, rất cụ thể nhưng cũng rất đơn giản, có lý và vô cùng thuyết phục. Những kiến giải này được nhà thơ dựa trên hai trục không gian và thời gian. Đó là “thời gian đằng đẵng” và “không gian mênh mông”. Và giữa không gian bao la, thời gian dài rộng ấy, đất nước hiện ra thật to lớn, hùng vĩ qua hình ảnh “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc – con cá ngư ông móng nước biển khơi”.Phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 ta thấy không gian đất nước hiện lên thật hùng vĩ mà rất trữ tình. Và ở những câu thơ tiếp theo, Nguyễn Khoa Điềm cắt nghĩa định nghĩa về đất nước từ góc độ những truyền thuyết thời xa xưaĐất là nơi Chim vềNước là nơi Rồng câu thơ dựa trên truyền thuyết về Lạc Long Quân và Âu Cơ, người cha người mẹ của đồng bào ta. Lạc Long Quân và Âu Cơ đẻ ra đồng bào ta trong bọc trăm trứng, nghĩa là đất nước tạo ra tất cả mọi người, là tất cả mọi người, tất cả thế hệ, là tất cả những người đang sống và cả những người đã khuất. Nhưng dù bạn là ai, sinh ra ở đâu thì tất cả chúng ta đều cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ. Đất nước luôn ở trong anh, trong em và trong tất cả chúng ta, trong những người đã khuất, trong những người hôm nay và những thế hệ mai sau. Tất cả tạo nên một đất nước vừa rộng lớn thiêng liêng, vừa gần gũi quen thuộc và bao giờ cũng tròn vẹn nghĩa câu thơ tiếp theo, giọng thơ của Nguyễn Khoa Điệm vẫn thật khúc chiết nhưng cũng chứa chan bao tình cảm đằm ơi đất nước là máu xương của mìnhPhải biết gắn bó san sẻPhải biết hóa thân cho dáng hình xứ sởLàm nên đất nước muôn đời…Những câu thơ trên không khỏi khiến ta nghĩ về câu thơ của Chế Lan Viên viết về đất nước. Phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 ở những câu trơ trên ta thấy, nếu với Nguyễn Khoa Điềm, “đất nước là máu xương của mình” nên chúng ta phải biết “hóa thân cho dáng hình xứ sở”; thì Chế Lan Viên viếtÔi Tổ quốc ta yêu như máu thịtChất chính luận trong bài thơ thuyết phục người đọc tin, còn chất trữ tình lại khiến người đọc xúc động và nảy nở yêu thương. Và chính sự hòa quyện của chất chính luận và trữ tình trong thơ Nguyễn Khoa Điềm trong cách nói về đất nước đã tạo nên sức hấp dẫn cho bài thơ. Và những hình ảnh, chi tiết cụ thể trong bài thơ được nâng lên tầm khái quát. Luận điểm 2 Tư tưởng đất nước nhân dân qua phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 Trong phần thứ hai của bài thơ, Nguyễn Khoa Điềm đưa ra một phát hiện độc đáo khi nói về những yếu tố góp thành đất người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng PhuCặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống MáiGót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lạiChín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng VươngNhững con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳmNgười học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non NghiênCon cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnhNhững người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà ĐiểmVà ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãiChẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông chaỞ đây ta thấy, đất nước hiện lên với nhiều hình ảnh cụ thể. Đó là một đất nước bao la, hùng vĩ, một đất nước với nền văn hiền nghìn năm lịch sử. Nhưng đất nước ấy cũng là những điều gần gũi, quen thuộc với tất cả mọi người. Phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 đến đây ta thấy, đất nước không phải của riêng ai, không phải những người anh hùng mới có công làm nên đất nước, mà đất nước còn là một phần của những con người bình thường, những con người vô danh lặng lẽ. Tất cả họ đều góp cho đất nước một dáng người yêu nhau thì góp cho đất nước “núi Bút, non Nghiên”. Và ngay cả những con gà, con cóc cũng góp phần góp cho đất nước vịnh Hạ Long huyền thoại. Còn những người dân bình thường, nào “ông Đốc”, “bà Đen”, “bà Điểm” cũng đều làm nên những địa danh nổi tiếng cho đất từ những phát hiện độc đáo này, Nguyễn Khoa Điềm đã khái quát vê đất nước thật sâu sắc và đầy xúc độngÔi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấyNhững cuộc đời đã hóa núi sông taNhưng đây không phải là kết thúc bài thơ, cũng không phải kết thúc cho những suy ngẫm, cảm xúc về đất nước. Bởi dường như, đất nước hiện diện ở bất cứ đâu, ở bất kì điều gì ta nói đến, từ những người con trai ra trận đến những người con gái ở nhà nuôi dạy con cái. Mà nhiều người trong số họ đã trở thành anh đã sống và chếtGiản dị và bình tâmKhông ai nhớ mặt đặt tênNhưng họ đã làm ra Đất NướcTuy nhiên đất nước là tất cả mọi người, đất nước không chỉ được tạo nên bởi những lớp người “đã sống và chết”. Mà ở đây tác giả còn thể hiện lòng biết ơn đối với những người vô danh, những người “không ai nhớ mặt đặt tên – nhưng họ đã làm ra Đất Nước”. Họ đã sống giản dị và làm việc thầm lặng nhưng lại mang đến ý nghĩa lớn lao. Bởi chính họ đã truyền lại điều quý giá biết bao, từ hạt lúa, ngọn lửa đến tiếng nói cho những suy ngẫm này, Nguyễn Khoa Điềm đã kết luận rằng Đất Nước này là đất nước của tất cả mọi người, đất nước của nhân dân, đất nước của ca dao thần thoại, đất nước của cả những anh hùng và cả những người vô danh. Tất cả họ dù để lại một dòng tên trong lịch sử, một tượng đài hay một tấm bia lưu danh hay không đều mang lại cho đất nước một cuộc đời bình dị mà ý nghĩa lớn lao, làm nên một đất nước trường tồn và hùng vĩ, rộng lớn cả về thời gian và không gian. Kết luận khi phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 Đoạn trích “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm đã cho ta thấy một đất nước rộng lớn, đa chiều được thể hiện bằng vốn hiểu biết phóng phú của nhà thơ. Đồng thời, phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 ta thấy tác phẩm này là đúc kết những trải nghiệm của nhà thơ trong khoảng thời gian ông bị tù đày trong nhà tù của quân Mỹ ngụy và thời điểm tham gia phong trào sinh viên ở tất cả lòng chân thành và suy ngẫm sâu sắc, Nguyễn Khoa Điềm gửi gắm tới bạn đọc những cảm nghĩ riêng mà độc đáo, gần gũi về đất nước. Đặc biệt, đây không phải chỉ là cảm nhận của riêng nhà thơ mà còn là tiếng nói đại diện cho cả một thế hệ thanh niên trong kháng chiến chống Mỹ khi nói về đất nước. Về mặt nghệ thuật, “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm là sự kết hợp hài hòa của lối viết chính luận và chất trữ trình trong thơ. Phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn [rule_3_plain] Phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn Phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 để thấy những phát hiện độc đáo mà gần gũi của nhà thơ về hình ảnh đất nước. Tác giả và tác phẩm? Dàn ý phân tích đoạn 2? Bài mẫu 1 Phân tích Đoạn 2 bài thơ Đất nước? Bài mẫu 2 Phân tích Đoạn 2 bài thơ Đất nước? Bài mẫu 3 Phân tích Đoạn 2 bài thơ Đất nước?Chương trình lớp 12 rất nặng với nhiều kiến thức phức tạp. Ngữ văn là một trong những môn bắt buộc trong kì thi THPTQG, tuy nhiên khối lượng kiến thức rất nhiều. Vì vậy, bài viết dưới đây sẽ giúp các em ôn tập thêm về bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm, rất mong bài viết sẽ hữu ích đối với các em. Mục lục bài viết 1 1. Tác giả và tác phẩm 2 2. Dàn ý phân tích đoạn 2 3 3. Bài mẫu 1 Phân tích Đoạn 2 bài thơ Đất nước 4 4. Bài mẫu 2 Phân tích Đoạn 2 bài thơ Đất nước 5 5. Bài mẫu 3 Phân tích Đoạn 2 bài thơ Đất nước 1. Tác giả và tác phẩm Nguyễn Khoa Điềm sinh ngày 15 tháng 4 năm 1943, tại làng Ưu Điềm, xã Phong Hòa, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế; Ông sinh ra tại thôn An Cựu, xã Thủy An, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên – Huế, trong một gia đình trí thức, giàu truyền thống yêu nước và tinh thần cách mạng. Nguyễn Khoa Điềm học tập và trưởng thành ở miền Bắc, chiến đấu và học tập ở miền Nam. Thơ của ông mang màu sắc chính luận sâu sắc, cảm xúc suy tư dồn nét, với một số tác phẩm tiêu biểu như sau – Đất ngoại ô thơ, 1973; – Cửa thép ký, 1972; – Mặt đường khát vọng trường ca, 1974; – Ngôi nhà có ngọn lửa ấm thơ, 1986; – Thơ Nguyễn Khoa Điềm thơ, 1990; Bài thơ Đất nước là một trong những bài thơ tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Nguyễn Khoa Điềm, bài thơ được sáng tác năm 1971 ở chiến khu Bình Trị Thiên. Bài thơ như dấu mốc đánh dấu sự thức tỉnh của nhân dân vùng tạm chiếm, đồng thời là lời ca về tinh thần kháng chiến của nhân dân ta. Mở bài Giới thiệu đôi nét về tác giả và tác phẩm. Thân bài Ví trí đoạn trích Sau khi cảm nhận đất nước qua nhiều phương diện của lích sử, Nguyễn Khoa Điềm đã đi đến câu trả lời ngắn gọn và làm thức tỉnh tinh thần yêu nước trong nhân dân ta “Đất nước trong nhân dân là gì?” – Vạn vật của đất nước không chỉ do tự nhiên tạo ra mà những phẩm chất tốt đẹp là một phần máu thịt của con người. – Tình yêu thủy chung son sắc mà ta có “hòn Trống” “hòn Mái” – Nhờ truyền thống hiếu học mà ta có “núi Bút” và “núi nghiên” – Nhờ có tình yêu quê hương đất nước, tinh thần bất khuất, dũng cảm mà chúng ta mới có những di tích lịch sử về quá trình dựng nước và giữ nước. – Con người làm nên 4000 năm lịch sử + Họ là những người dân là những người con trai con gái họ có tình yêu quê hương đất nước + Tác giả nhấn mạnh sự hi sinh của những người vô danh cống hiến cả tuổi thanh xuân để bảo vệ đất nước để bảo vệ thế hệ mai sau. + Nhân dân tạo ra những giá trị vật chất giá trị tinh thần văn hóa; “Truyền lửa”, “Truyền giọng nói”…. + Đoạn trích ” Đất nước” là một cái nhìn mới mẻ về bình diện lịch sử, văn hóa , địa lí dựa trên những cơ sở cốt lõi – Sử dụng sáng tạo chất liệu dân gian ngôn ngữ giàu chất triết lí Kết bài Đánh giá lại giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật. 3. Bài mẫu 1 Phân tích Đoạn 2 bài thơ Đất nước Nếu như ở đầu Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm khơi gợi tâm hồn người đọc tìm về cội nguồn, cắt nghĩa sự hình thành của Đất Nước thì ở khổ thơ thứ hai, con mắt thơ Nguyễn Khoa Điềm đặt hình ảnh Đất Nước trong chiều rộng địa lý. không gian, chiều dài thời gian lịch sử, và trong các mối quan hệ mật thiết của mỗi cá nhân. “Đất là nơi em đi học Nước là nơi tôi tắm Đất nước là nơi chúng ta gặp nhau Đất nước là nơi tôi đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ Mảnh đất nơi “phượng hoàng bay về núi bạc” Mặt nước là nơi “móng vuốt của ngư dân nước biển” Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục thể hiện sự sáng tạo, linh hoạt trong cách dùng từ, đặt câu khi ở đây, nhà thơ trích ra hai chữ Đất Nước để phân tích tâm hồn ẩn sâu bên trong nó. Đất là nơi em đi học, nước là nơi em tắm, nghĩa là hình ảnh đất nước hiện lên vô cùng gần gũi, gắn bó mật thiết với đời sống con người. Trước đây, khi viết về đất nước, các nhà thơ thường gọi nó, tô vẽ nó bằng những hình ảnh lung linh hùng vĩ, thì nay Nguyễn Khoa Điềm gợi ra đất nước còn là không gian thân thương, nơi gắn bó tình cảm, nơi khơi nguồn và khơi nguồn cảm hứng. là điểm tựa cho hạnh phúc lứa đôi. Là nơi gửi gắm nỗi nhớ thầm kín của người con gái nên nó vừa tuyệt vời vừa là mảnh ký ức gợi nhớ cho tâm hồn bất cứ ai. Ở hai câu thơ tiếp theo, Đất nước tái hiện trong ca dao, tục ngữ, để thấy rằng Đất nước không chỉ đánh thức kí ức tuổi thơ mà còn đánh thức kí ức văn hoá cộng đồng, nét đẹp của con người. truyền thống cộng đồng. “Thời gian đằng đẵng Không gian mênh mông Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ Đất là nơi Chim về Nước là nơi Rồng ở Lạc Long Quân và Âu Cơ Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng” Đất nước là sự rèn giũa, kết hợp giữa dòng chảy vô tận của thời gian bao la nhưng thời gian ở đây không phải là thời gian vô tri vô giác mà là thời gian của lịch sử văn hóa. Nhắc lại truyền thuyết Lạc Long Quân Âu Cơ là gợi lại những ký ức lịch sử, văn hóa của cộng đồng, đồng thời cũng là điểm tựa để gợi nhớ những nét đẹp văn hóa dân gian của dân tộc. Đất Nước trường tồn, Đất Nước vẫn bất tử giữa không gian bao la, không gian hùng vĩ. Nhìn đất nước theo cả chiều dài thời gian, chiều rộng không gian, đất nước còn là sợi dây kết nối những thế hệ đã qua và thế hệ sau. “Những ai đã khuất Những ai bây giờ Yêu nhau và sinh con đẻ cái Gánh vác phần người đi trước để lại Dặn dò con cháu chuyện mai sau Hằng năm ăn đâu làm đâu Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”Để làm nên bề dày văn hóa, lịch sử của Đất nước, chắc chắn đó là sự tích tụ, tiếp nối của biết bao thế hệ con cháu đã ngã xuống, hy sinh cho nền độc lập dân tộc. Đất nước sáng mãi trong lòng mỗi người bởi sự hy sinh cao cả, vĩ đại, bởi tinh thần dân tộc như ngọn lửa truyền qua bao thế hệ. Và vì thế, đồng bào các dân tộc luôn tự nhắc mình đạo lý uống nước nhớ nguồn truyền thống Hằng năm nhớ ngày giỗ Tổ. Tiếp tục mạch lập luận, nhà thơ nhìn Đất Nước trong cả mối quan hệ của mỗi cá nhân “Trong anh và em hôm nay Đều có một phần Đất Nước Khi hai đứa cầm tay Đất Nước trong chúng mình hài hòa nồng thắm Khi chúng ta cầm tay mọi người Đất nước vẹn tròn, to lớn Mai này con ta lớn lên Con sẽ mang đất nước đi xa Đến những tháng ngày mơ mộng”. Trong anh và em, trong mỗi chúng ta đều thấm đượm hồn quê. Đất nước vì thế là sự thống nhất giữa cái chung và cái riêng, giữa mỗi cá nhân và cả cộng đồng, giữa cái nhỏ và cái lớn, giữa cái mộc mạc gần gũi và cái xa vời vợi. Từ đó, bắc một nhịp cầu đến trái tim người đọc, rằng Đất nước ở trong ta, không ở ngoài ta, và do đó Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình Phải biết gắn bó san sẻ Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở Làm nên Đất Nước muôn đời…” Viết về đất nước, đó là nguồn cảm hứng bất tận và ở mỗi giai đoạn lịch sử, các nhà thơ, nhà văn lại gửi gắm vào đó linh hồn của thời đại mình. Ở đây, Nguyễn Khoa Điềm viết Đất nước với mong muốn thức tỉnh những người chiến sĩ tham gia kháng chiến kiến quốc, soi sáng, hướng dẫn họ nhưng giọng thơ của ông không hề giáo điều. đong đầy, nghẹn ngào yêu thương, như lời nhắn nhủ chân thành, như lời chuyển giao thế hệ. Nó khiến người đọc đồng cảm hơn, cảm nhận rõ hơn về sự hòa hợp, gắn kết của đất nước trong tâm hồn mỗi người. Đất nước là máu xương của mỗi người, bởi nó được xây dựng và gìn giữ bằng chính cuộc đời và lòng yêu nước thiêng liêng của biết bao thế hệ đã ngã xuống và hy sinh. Và cũng bởi Đất nước cho ta máu thịt, cho ta cách sống, cách nghĩ, cho ta điểm tựa về truyền thống văn hóa, lịch sử – những yếu tố ấy đã hun đúc nên vẻ đẹp tâm hồn của chính ta. của người Việt Nam, trong đó có bạn và tôi, mỗi chúng ta. Nếu cá nhân nào tồn tại đơn độc, không có cộng đồng để bấu víu, làm điểm tựa cho sự phát triển và nuôi dưỡng văn hóa tinh thần, thì chẳng khác nào chúng ta trở nên vô minh. bạn thua? Đó là ý nghĩa sâu xa nhất mà Đất Nước có tác động đến mỗi chúng ta. Vì vậy, mỗi chúng ta đều có trách nhiệm hóa thân thành hình đất nước, phải dấn thân hy sinh, vì đó cũng chính là sự sáng tạo tinh thần của mỗi chúng ta. Khổ thơ thứ hai thể hiện sự chiêm nghiệm sâu sắc của Nguyễn Khoa Điềm về hình ảnh Đất Nước. Vì vậy, nó không chỉ tạo được sự đồng cảm trong tâm hồn người đọc mà còn làm tăng sức nặng của những triết lí, tư tưởng. Nhưng cái tài tình của Nguyễn Khoa Điềm là diễn đạt nó bằng cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu sắc. 4. Bài mẫu 2 Phân tích Đoạn 2 bài thơ Đất nước Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ trẻ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, sáng tác của ông nổi bật với phong cách thơ trữ tình, cảm xúc thiết tha, suy tư sâu sắc. Sử thi “Mặt đường khát vọng” tiêu biểu cho phong cách sáng tác của Nguyễn Khoa Điềm, tác phẩm được sáng tác năm 1971 tại chiến khu Trị Thiên nhằm mục đích giáo dục thanh niên thành thị vùng tạm chiến miền Nam về sứ mệnh của mình. với cuộc kháng chiến chống Mỹ. Đoạn “Đất nước” nằm trong chương thứ năm của Bài ca dài và là một trong những đoạn hay nhất của tác phẩm viết về đất nước. Mở đầu đoạn trích, tác giả có cảm nhận mới về quá trình hình thành đất nước. Đất nước được hình thành một cách bình dị, gần gũi và gắn bó với cuộc sống hàng ngày, đó là những câu chuyện cổ tích, hay những câu ca dao, những phong tục tập quán của con người và đất nước. Ở khổ thơ thứ hai, tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện một cách cảm nhận mới nhưng cũng rất đỗi bình dị về hai tiếng đất nước. Đất nước là gì? Đất nước là những thứ gần gũi với ta, là con đường ta đi học, là lớp học ta ngồi, là bến đò em tắm, là cây đa, là giếng nước, là sân đình, là không gian riêng của những đôi lứa yêu nhau. Đất nước còn là sự hòa quyện của cá nhân với cá nhân với cộng đồng, đất nước là sự hòa quyện của tình yêu đôi lứa và tình yêu đất nước. Đất nước là những truyền thống cao đẹp gần gũi với mỗi chúng ta, đất nước là máu, là xương, là máu, là thân thể và ruột thịt, là thứ mà chúng ta bảo vệ cho dù phải hy sinh tất cả. Theo tác giả Nguyễn Khoa Điềm, nhân dân là chủ của nước, là người canh giữ, bảo vệ và xây dựng đất nước. Để làm rõ tư tưởng đó, tác giả đã xem xét kỹ các tầng địa lý, lịch sử, văn hóa của đất nước để chứng minh nhân dân là chủ thể sáng tạo ra đất nước trong không gian địa lý. Nguyễn Khoa Điềm đã nhìn đất nước qua những danh lam thắng cảnh trải dài trên đất nước. Tất cả những địa danh đó đều gắn liền với những di tích lịch sử, một sự thật mà lịch sử đã chứng kiến. Nói cách khác, chính những truyền thuyết, sự tích, sự kiện lịch sử về nội dung đã biến địa danh ấy thành danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, văn hóa được mọi người công nhận và biết đến. , là người vợ nhớ chồng lên núi “Vọng Phu”, là đôi trai gái yêu nhau ở hòn Trống Mái, là những sinh viên nghèo tạo nên núi Bút Nghiên hay Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Đen… Diễm đã góp phần tạo nên những địa danh mang tên mình. Trong cảm nhận của nhà thơ, mỗi danh lam thắng cảnh không chỉ là một nét vẽ tô điểm cho đất nước hình chữ S của chúng ta mà hàng nghìn năm qua còn ẩn chứa sự chung thủy, tình vợ chồng, nghĩa tình. truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm của đất nước, lòng biết ơn cội nguồn, biết ơn người đi trước, người có công với nước, tinh thần hiếu học, ý chí vượt khó khăn gian khổ, tinh thần xả thân vì cộng đồng. Khai thác đất nước về mặt địa lý, tác giả không chỉ cảm nhận đất nước trù phú mà còn cảm nhận nhiều vùng đất, nhiều địa danh mang những tên gọi dân dã. Đặc biệt, nhà thơ không chỉ nhìn đất nước từ bên ngoài mà còn nhìn sâu vào bên trong để phát hiện ra chính con người tạo nên những địa danh đó để từ đó tác giả đi đến những kết luận chung. . Những danh lam thắng cảnh nổi tiếng trong cả nước đều do nhân dân tạo nên, tất cả đều là kết tinh công sức của những con người bình thường vô danh. Nói cách khác, người dân là người tạo ra đất nước từ mọi khía cạnh địa lý. Bằng nghệ thuật kết cấu quy nạp liệt kê động từ “góp công” lặp đi lặp lại nhiều lần, nhà thơ khẳng định công lao khó nhọc để làm nên những nơi ấy. Tác giả cũng khai thác về mặt lịch sử, tác giả đã nhìn vào bốn nghìn năm lịch sử của nước ta để thấy rằng nhân dân ta là những người cần cù trong lao động, anh hùng trong chiến đấu. những mốc son oanh liệt của các anh hùng như Nguyễn Trãi, Hưng Đạo Đại Vương, Nguyễn Huệ… không chỉ là những anh hùng nổi tiếng, tác giả còn nói về sự hi sinh tinh thần của những con người vô danh mà họ có thể là những người lính họ đã hi sinh cả tuổi thanh xuân để bảo vệ Tổ quốc. còn lại nơi chiến trường, họ là những người không tên không tuổi, nhưng họ đã cống hiến hết mình cho đất nước, hay là những con người ngày đêm miệt mài. Họ làm nên đất nước bằng cách truyền lại cho chúng ta những giá trị vật chất và tinh thần bằng hạt gạo, tiếng nói, ngọn lửa và bản sắc văn hóa dân tộc. Họ là những người có công đánh đuổi giặc ngoại xâm tạo dựng chủ quyền để làm nền móng cho các thế hệ mai sau và các thế hệ mai sau thay phiên nhau giữ gìn và phát triển đất nước. Nhà thơ khẳng định vai trò của nhân dân trong việc giữ gìn truyền thống văn hóa để làm nên đất nước tươi đẹp. Giọng điệu mềm mại, uyển chuyển, có lúc thủ thỉ, có lúc trang nghiêm, sử dụng tốt chất liệu văn hóa, dân gian, có sự đan xen giữa chất chính luận và chất trữ tình, đi sâu vào lòng người đọc, phần hai của đoạn văn. Trích dẫn Đất nước không chỉ nêu định nghĩa về đất nước mà còn thể hiện quan niệm của tác giả về tư tưởng nhân dân. 5. Bài mẫu 3 Phân tích Đoạn 2 bài thơ Đất nước Đất nước là đề tài muôn thuở trong thơ ca, nghệ thuật, là điểm hẹn tâm hồn của biết bao văn nghệ sĩ. Trong những năm tháng chiến tranh ấy, tình yêu đất nước lại càng sáng ngời trong trái tim của mỗi người con đất Việt. Đoạn trích “Đất nước” của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm được sáng tác trong những bối cảnh đó. Nói đến văn học thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, chúng ta biết đến các nhà thơ thời kỳ này như Xuân Quỳnh, Trần Đăng Khoa, Phạm Tiến Duật… đã viết về tinh thần của cả một thế hệ người “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước mà lòng phơi phới dậy tương lai.” Một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của nền văn học Việt Nam lúc bấy giờ phải kể đến một nhà thơ đã trưởng thành rất nhiều trong chiến thắng lâu dài nhưng chắc chắn của dân tộc – đó là Nguyễn Khoa Điềm. Khi nhắc đến tác giả Nguyễn Khoa Điềm, trong tiềm thức của mỗi người yêu văn chương đều không thể quên phong cách thơ của ông, đó là phong cách thơ mà trữ tình chính luận. Thơ Nguyễn Khoa Điềm đã làm say lòng người đọc bởi những cảm xúc sâu lắng, giàu chất chiêm nghiệm, thể hiện tâm thế của người trí thức tích cực tham gia cuộc đấu tranh vẻ vang của nhân dân. Một trong những kiệt tác của Nguyễn Khoa Điềm phải kể đến đoạn trích “Đất Nước” nằm trong chương V của “Bài ca khát vọng” được tác giả hoàn thành ở chiến khu Trị – Thiên năm 1971, in lần đầu. 1974. Tác phẩm cũng đã xây dựng thành công tư tưởng “Đất nước là của dân” được nhân dân mãi mãi bảo vệ và giữ gìn trên cả ba phương diện chiều rộng không gian địa lý, chiều dài lịch sử và chiều sâu văn hóa. Nhà thơ như đứng trước hàng trăm câu hỏi “Đất nước này ai dựng nên, ai sẽ bảo vệ, gìn giữ nó muôn đời?” và từ đâu để trả lời những câu hỏi đó, Nguyễn Khoa Điềm ngược dòng cảm xúc của chính mình để tìm về cội nguồn đất nước. Khi nói đến vẻ đẹp của đất nước ở khía cạnh chiều sâu văn hóa, chúng ta phải hiểu văn hóa là những giá trị mà con người của một vùng đất tạo ra. Có thể ở đây có giá trị tinh thần hoặc giá trị phi vật thể. Tác giả Nguyễn Khoa Điềm nhận thấy người Việt Nam không chỉ ra đi bảo vệ bờ cõi mà còn trao truyền, đùm bọc lẫn nhau những hạt giống của dân tộc ta, những nét đẹp thấm đượm cốt cách của người Việt Nam. truyền từ đời này sang đời khác, từ trong lòng người già đến lồng ngực lớp trẻ, đó là nét đẹp đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam. Đất nước bắt đầu từ một cách trang trọng nhưng rất giản dị và gần gũi Cấu trúc câu “Đất nước có – bắt đầu – lớn lên” nhằm hình dung quá trình phát triển của đất nước trong trường kỳ lịch sử, đất nước như một thực thể sống có nội lực mạnh mẽ. Nghệ thuật liệt kê là thủ pháp chủ đạo quản lý toàn bài thơ đã góp phần khắc họa một đất nước bình dị, gần gũi. Đất nước gắn bó với bà, với mẹ, với cha và chính Đất nước hài hòa trong mối quan hệ gia đình, làng xóm. Đất nước là một phần máu thịt trong ký ức của mỗi người. “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi Đất nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể” Nhà thơ đã ngược dòng cảm xúc về ngày xưa, ngày xưa, đưa ta về với cõi thần tiên diệu kì mà từ lâu đã trở thành nguồn sống, trong tâm hồn ta, cho ta bài học cuộc sống. về nguyên tắc sống nhân ái, yêu đời, yêu thương, chăm sóc, đùm bọc lẫn nhau. “Đất nước bắt đầu bằng miếng trầu bà ăn” Đó là tục nhuộm răng, là tục nhai trầu của người già. Đồng thời đó cũng là câu ca dao tục ngữ là “miếng trầu là đầu câu chuyện”, là sự tích trầu cau, chính là vẻ đẹp của người già Việt Nam. Đất Nước là văn hóa kết tinh từ tâm hồn Việt đó là từ truyện ca dao, cổ tích đến tục ngữ đến “miếng trầu” đã là một hình tượng nghệ thuật mang tính thẩm mĩ, sau là hiện thân của tình yêu thương, lòng thủy chung của tâm hồn của dân tộc. Tiếp đến, nhà thơ như một người hướng dẫn đã đưa ta trở về làng Phù Đổng nghe lại sự tích Thánh Gióng nhổ bụi tre ngà đánh tan quân giặc Ân. “Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc” Hình ảnh quân dân ta trồng tre đánh giặc không chỉ một lần mà xuyên suốt 90 câu thơ. Hình ảnh này được lặp đi lặp lại ba lần, là biểu tượng của truyền thống yêu nước, đánh giặc giữ nước. của người dân Việt Nam. Có thể thấy, từ bao đời nay, từ truyền thuyết dân gian đến các tác phẩm thơ ca hiện đại, cây tre đã trở thành biểu tượng cho sức mạnh tinh thần kiên trung đánh giặc cứu nước, đồng thời là biểu tượng cho phẩm chất của đời sống. vẻ đẹp của con người Việt Nam dũng cảm. Từ “lớn lên” được sử dụng rất chính xác, khơi dậy niềm tin và lòng tự hào dân tộc. Giọng thơ sâu lắng, trang trọng khiến cho những suy ngẫm về cội nguồn đất nước giàu chất triết lí nhưng vẫn thiết tha, trữ tình. Cách cảm nhận, lý giải về cội nguồn Đất Nước bằng những hình ảnh giản dị, địa danh quen thuộc đã khẳng định rằng Đất Nước gần gũi, thân quen, bình dị ngay trong đời sống mỗi người. Câu ca dao “Tóc mẹ vén sau đầu” nói đến phong tục làm nên nét riêng của người phụ nữ Việt Nam truyền thống. Đất nước lớn lên từ những giọt mồ hôi thấm mưa nắng. Hạt gạo, hạt gạo thấm bao mồ hôi, bao công lao nuôi dạy biết bao thế hệ. Đất nước lớn lên từ những nhọc nhằn của người cha và từ sự lo toan của người mẹ “Cha mẹ thương nhau gừng cay muối mặn”. Đó là chất liệu của ca dao, tục ngữ, là tình, là nghĩa, là lời thề vàng son sắt, và cũng là lối sống thủy chung son sắc của biết bao cặp vợ chồng Việt Nam. Câu ca “Kèo, cột thành danh” nhắc đến tục đặt tên xấu cho con dễ nuôi. Thủ pháp nghệ thuật liệt kê trong nhiều câu thơ thứ tám “Gạo của gạo phải xay, giã, sàng, sảy” thể hiện các công đoạn tạo nên hạt gạo – một đất nước có nền văn minh lúa nước, luôn bảo vệ hạt giống, cốt lõi của dân tộc Việt Nam. Những nét đẹp do cha mẹ truyền lại cho con cái tiếng nói, thầy cô truyền cho học trò chữ viết, nơi ông cha truyền lại cho con cái lối sống, nếp nghĩ qua ca dao, tục ngữ. Và chính con người cũng đã lưu truyền những nét đẹp của đất nước, những nét đẹp văn hóa của người Việt Nam. Dần dần tác giả cũng nhận ra “Đất Nước có từ ngày ấy…”, và ta không biết ngày ấy là ngày gì, chỉ biết rằng nó có từ rất xa xưa, rất xa xưa. Chỉ biết rằng đất nước đã có từ trong truyền thuyết, huyền thoại và từ thời dân tộc hình thành phong tục, nơi mà từ bao đời con người Việt Nam đã không tiếc máu xương để giữ từng tấc đất thiêng liêng và nơi mà bàn tay lao động của mình. để xây dựng đất nước. “Ngày ấy” vừa là trạng ngữ chỉ thời điểm đó trong quá khứ, vừa là đại từ thay thế. Vậy là Đất Nước đã có từ khi mẹ tôi thường kể cho tôi nghe những câu chuyện cổ tích, khi dân ta biết trồng tre đánh giặc, trồng lúa, ăn trầu, búi tóc, sống nghĩa tình, thủy chung. Như trên đã nói, tác giả Nguyễn Khoa Điềm là một nhà thơ trưởng thành từ quân đội, một trong những nhà thơ đã xẻ dọc theo chiều dài của nhiều mảnh đất hình tia chớp. Trước hết, khi nói về chiều rộng của không gian và địa lý, chúng ta phải hiểu rằng địa lý là toàn bộ những yếu tố tự nhiên trên một đơn vị diện tích lãnh thổ của đất nước. Là nhà thơ đã đi suốt chiều dài mảnh đất hình chữ S, ông am hiểu từng danh lam, thắng cảnh trên lãnh thổ Việt Nam. “Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước Những núi Vọng Phu Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm” Ấn tượng nơi ban đầu của chúng ta khi đọc tám câu thơ là ta như bị chìm ngập trong không gian cổ tích diệu kỳ và thần thoại. Cả đoạn thơ là kho truyện cổ, cùng những các sự tích như “núi vọng phu”, hay là “hòn Trống Mái”. Một lần nữa tác giả cũng như một người hướng dẫn viên du lịch đưa ta trở về làng Phù Đổng nghe sự tích nơi thánh Gióng nhổ bụi tre ngà đánh tan giặc Ân. Đó cũng là truyền thống yêu nước của nhân dân ta. Mỗi một dòng thơ tùy độ dài ngắn khác nhau nhưng đều có chung một kết cấu. Mỗi dòng thơ cũng đều chia ra hai phần và liên kết với nhau bằng với điệp từ “góp”. Ta có thể chia bài thơ đọc theo từ “góp” sẽ là hai nửa thể hiện trong quan hệ đối lập. Nửa đầu nói về con người, chất phác, giản dị, tình cảm, có chút lém lỉnh, đáng yêu. Ngược lại, nửa sau là từ “góp” nói về đất nước, lời thơ muôn màu, muôn vẻ. Nghệ thuật tương phản này là bài ca ca ngợi sự hy sinh của nhân dân để làm nên vẻ vang cho đất nước. Đằng sau mỗi địa danh là một cái tên, đằng sau mỗi cái tên là một huyền thoại và đằng sau những huyền thoại là cuộc đời của những con người. Dân tộc ta đã làm nên đất nước, đó là đôi vợ chồng thủy chung, cũng là những anh hùng, những chiến sĩ quyết tử vì Tổ quốc quyết sinh, những học trò nghèo mài bút, ông Đốc, ông Trạng, bà Đen, bà Điểm.. .Hơn nữa, khi người dân còn nhỏ bé, những cái tên vô danh, ẩn dụ bằng hình ảnh con cóc, con gà… và trong lòng người đã có những nhân vật chỉ nhắc đến. Đến đây ta mới thấy sự uy nghiêm linh thiêng, sự ngưỡng mộ, tôn thờ đã được ẩn dụ bằng hình ảnh “Chín mươi chín con voi góp công dựng nước tổ Hùng Vương” ở nơi phúc địa quanh núi Hy Cương hay “Rồng nằm im trong xanh thẳm”. con sông”. Dân tộc ta rất đa dạng, rất nhiều, nhưng họ chỉ làm một việc chung và thống nhất chung tay xây dựng đất nước Việt Nam của chúng ta. Việc nhà thơ sử dụng cụm từ “góp công” thật ấn tượng, gợi sự kiên trì, bền bỉ, với ý chí đồng lòng, sự đoàn kết của trăm họ trong một việc góp phần tạo nên một không gian vẻ vang cho nhân dân. . Nhân dân đã góp sức, bằng tình đoàn kết, bằng máu xương, tính mạng, tên tuổi, tài năng. Nhờ đó, thế hệ mới của chúng ta đã trở thành một đất nước hữu hình – một đất nước của những anh hùng. Trước hết ta đến với hai câu thơ sau “Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha” Nó được viết liền mạch theo kiểu ngắt dòng và diễn đạt theo lối phủ định để khẳng định. Nó như một bản tuyên ngôn sinh động mang hình thức nghị luận và khẳng định mạnh mẽ những hy sinh to lớn của nhân dân. Tiếp đó, câu thơ thứ ba “Ôi đất nước sau bốn nghìn năm nhìn đâu cũng thấy” sử dụng thán từ “Ôi” – một câu cảm thán. Nhà thơ dường như không giấu được nỗi lòng, bộc lộ cảm xúc nghẹn ngào trước những hi sinh to lớn của nhân dân. Tác giả nhấn mạnh ở cụm từ “bốn nghìn năm” – đó là chiều dài lịch sử của dân tộc, bốn nghìn đời tổ tiên đều đánh trận, đời cha đi trước, đời con theo sau, cha con là đồng chí. các đồng chí chiến đấu vì độc lập, tự do của dân tộc. Kết thúc bài thơ là một câu thơ vô cùng ấn tượng “Đời đã biến núi sông ta…” chính bởi sự biến đổi đó. Các câu trước mỗi dòng từ mười ba đến mười lăm âm tiết, nhưng ở câu cuối chỉ là một trong tám âm tiết. Nó như một sự chiêm nghiệm, và một đúc kết để rút ra chân lý cô đọng. Ngoài ra, nó còn được kết thúc bằng hai âm bằng và như một giọng trầm để phản âm. Dấu chấm lửng kết thúc bài thơ như một khoảng lặng trước những xao xuyến của bao tâm hồn. Nhưng ấn tượng nhất là lời thơ đầy cô đọng. Cuộc đời của những con người ấy tuy ngắn ngủi, hữu hạn nhưng đã hóa thành núi sông, gửi gắm vô hạn, uy nghiêm vĩnh hằng. Đây chính là sự biến đổi phi thường khẳng định nhân loại chúng ta kỳ diệu biết bao! Họ không chỉ hóa thân để tạo hình đất nước mà còn tạo nên tâm hồn đất nước. Bên cạnh vẻ đẹp về chiều rộng và không gian địa lý, đất nước còn hiện lên với chiều dài lịch sử. Như chúng ta đã biết, Nguyễn Trãi là một nhà sử học chính thống, làm quan dưới triều Lê sơ, ông là một nhà sử học, nghiên cứu về lịch sử. Nguyễn Trãi coi lịch sử Việt Nam là sự tiếp nối của nhiều triều đại và nhiều đời vua “Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”. Nhưng ngược lại, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm không nhìn nhận lịch sử theo lối của một nhà sử gia chính thống. Đoạn thơ có lẽ mang đậm màu sắc lịch sử nhất trong khi toàn bộ thi phẩm này ta phải kể đến “Em ơi em Hãy nhìn rất xa Vào bốn ngàn năm Đất Nước” Năm tháng nào cũng người người lớp lớp Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta Cần cù làm lụng Khi có giặc người con trai ra trận Người con gái trở về nuôi cái cùng con” Nếu như Nguyễn Trãi đã nhìn nhận lịch sử đất nước ta theo lối của một nhà sử gia chính thống thì Nguyễn Khoa Điềm lại nhìn nhận vào lịch sử theo lối gợi mở lịch sử. Ông xoáy sâu và nhấn mạnh vào những con số “bốn ngàn năm”. Bốn ngàn năm ấy là bốn ngàn những lớp người Việt Nam ra trận, là bốn ngàn thế hệ người Việt Nam ra trận, và lớp cha trước lớp con sau cũng thành đồng chí chung câu quân hành đó. Đó là một cuộc chạy đua tiếp sức của nhiều người dân Việt Nam. Nói về lịch sử bốn nghìn năm của đất nước, cùng nhà thơ không nhắc lại các triều đại, các anh hùng nổi tiếng mà tập trung nhấn mạnh vai trò của khi những con người vô danh “Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi Họ đã sống và chết Giản dị và bình tâm Không ai nhớ mặt đặt tên Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.” Họ đã làm ra Đất Nước bằng chính là những công việc hằng ngày và trong suốt cuộc đời họ “Nhưng họ đã làm ra Đất Nước Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm Có nội thù thì vùng lên đánh bại” Họ truyền cho nhau ngọn lửa đã mang đến sức sống của dân tộc Việt Nam. Họ bảo vệ đất đai xứ sở từ thời vua Hùng cầm gươm đi mở cõi. Họ đã gìn giữ và truyền lại cho các thế hệ sau với mọi giá trị văn hóa, văn minh tinh thần và vật chất của cả đất nước, của dân tộc là hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, ngôn ngữ dân tộc, cả tên xã, tên làng và truyền thống chống thù trong và giặc ngoài. Để rồi khi đọc đến đây, đã từ trong trái tim của mỗi con người yêu văn chương đã vọng lại những vần thơ của Hoàng Trung Thông ở trong bài thơ “Báng súng” “Ta lại viết bài thơ trên báng súng Con lớn lên đang viết tiếp thay cha Người đứng dậy viết tiếp người ngã xuống Ngày hôm nay viết tiếp ngày hôm qua”. Chính nhân dân đã viết lên trang sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam. Bởi vậy, để viết lên trang sử vẻ vang của nhiều dân tộc Việt Nam thì đó là máu, là mồ hôi, là nước mắt của nhân dân ta. Cũng như vậy, ta lại nhớ đến hình ảnh anh giải phóng quân trong bài thơ là “Dáng đứng Việt Nam” của Lê Anh Xuân “Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhất Nhưng Anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng Và Anh chết trong khi đang đứng bắn Máu Anh phun theo lửa đạn cầu vồng. Chợt thấy anh, giặc hốt hoảng xin hàng Có thằng sụp xuống chân Anh tránh đạn Bởi Anh chết rồi nhưng lòng dũng cảm Vẫn đứng đàng hoàng nổ súng tiến công Anh tên gì hỡi Anh yêu quý Anh vẫn đứng lặng im như bức thành đồng Như đôi dép dưới chân Anh giẫm lên bao xác Mỹ Mà vẫn một màu bình dị, sáng trong Không một tấm hình, không một dòng địa chỉ Anh chẳng để lại gì cho riêng Anh trước lúc lên đường Chỉ để lại cái dáng-đứng-Việt-Nam tạc vào thế kỷ Anh là chiến sỹ Giải phóng quân. Tên Anh đã thành tên đất nước Ôi anh Giải phóng quân! Từ dáng đứng của Anh giữa đường băng Tân Sơn Nhất Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân” Không một dòng địa chỉ nào cũng chẳng có một tấm hình trước lúc lên đường nhưng những con người ấy vẫn nguyện bước chân ra đi để bảo vệ đất đai xứ sở nguyện ngã xuống “Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân”. Hay như các triết gia người Đức – Engels cũng đã từng nói “Nếu như không có máu, mồ hôi và nước mắt thì không có lịch sử dân tộc”. Mạch suy nghĩ đã sâu lắng dẫn đến tư tưởng cốt lõi, là điểm hội tụ và cũng là điểm đỉnh của cảm xúc trữ tình ở cuối đoạn Đất Nước này là Đất Nước của nhiều Nhân dân. Khi thể hiện tư tưởng Đất Nước của Nhân dân, nơi tác giả đã trở về với ngọn nguồn phong phú, và đẹp đẽ của văn hóa, với văn học dân gian mà tiêu biểu là ca dao, và vẻ đẹp tinh thần của nhân dân, hơn đâu hết, có thể tìm thấy trong ca dao, dân ca, có truyện cổ là Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao, thần thoại và những câu thơ hai vế song song là một cách định nghĩa về Đất Nước thật giản dị mà là cũng thật độc đáo. Nền văn hóa của Đất Nước Việt Nam là nền văn hóa của người Nhân dân, do Nhân dân sáng tạo nên. Trong nền văn hóa ấy, nơi ca dao thần thoại luôn chứa đựng cả lịch sử, xã hội, văn hóa của Đất Nước, và đặc biệt là đời sống tâm hồn của nhân dân. Nhà thơ đã vận dụng vốn ca dao, khiến cho dân ca một cách sáng tạo không lặp lại nguyên văn mà chỉ sử dụng ý tứ và là hình ảnh của ca dao, vẫn gợi nhớ đến ca dao nhưng đã lại trở thành một câu thơ, có một ý thơ gắn bó trong mạch chung của toàn bài để từ đó đã khẳng định Con người Việt Nam say đắm trong tình yêu. Thành công nghệ thuật của đoạn thơ này là sự vận dụng, kết hợp yếu tố dân gian với cách thể hiện tư duy hiện đại, tạo nên màu sắc thẩm mĩ vừa quen thuộc vừa mới lạ. Chất liệu văn hóa, nơi văn hóa dân gian được sử dụng tối đa, tạo nên không khí, giọng điệu, không gian nghệ thuật riêng giản dị, gần gũi, thực tế, bay bổng, mộng mơ của ca dao, truyền thuyết nhưng mới mẻ trong cách cảm nhận và thể hiện trong hình thức thơ tự do. Có thể nói, chất dân gian đã thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm của tác giả tạo nên nét nghệ thuật đặc sắc của đoạn thơ này. Qua đoạn trích Đất Nước, chúng ta cũng phần nào nhận thấy nét đặc sắc trong phong cách thơ Nguyễn Khoa Điềm là sự kết hợp giữa chính luận và trữ tình, giữa suy tưởng và cảm xúc, ngôn ngữ thơ đầy dung dị, gần gũi. hơi thở gần gũi, ấm áp của cuộc sống. Chính luận đã ngời sáng phẩm chất trí tuệ hài hòa với chất trữ tình phong phú. Bài thơ “điệp nhịp tim” càng làm cho chúng ta thêm yêu và tự hào về 4000 năm lịch sử của đất nước Việt Nam. Qua đó ta thấy, dù ở vùng địa lý nào, lịch sử hay văn hóa nào thì “Đất nước này là của dân” sẽ được nhân dân mãi mãi bảo vệ và gìn giữ. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã chắt lọc, tôi luyện và lên men trong thơ mình vẻ đẹp duyên dáng, tao nhã của văn hóa dân gian và thơ văn hóa. Tính nhất quán trong toàn bộ đoạn thơ đã với những câu thơ dài ngắn đan xen như sự tan chảy của cảm xúc, của dòng suy nghĩ miên man. Xuyên suốt cả bài thơ, hai chữ “Đất nước” luôn được viết hoa trang trọng, lặp lại như một nốt nhạc chủ đạo trong bản hùng ca về sông núi. Nhờ đó, tác phẩm đã khơi dậy lòng yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc và trách nhiệm công dân trong mỗi chúng ta. Mặc dù bài thơ được viết theo thể thơ lục bát, khó đọc, khó nhớ nhưng với những gì Nguyễn Khoa Điềm thể hiện trong nhiều tác phẩm này, ông xứng đáng là một trong những nhà thơ tiêu biểu của văn học Việt Nam thời bấy giờ. . Đồng thời, “Đất Nước” cũng xứng đáng trở thành hành trang tinh thần của những người yêu văn học vì đã bao lần viết về đề tài tình yêu quê hương, tình yêu đất nước còn giá trị cho đến hôm nay.

phân tích bài đất nước đoạn 2